Trong luật hình sự, hình phạt được coi là phương tiện có vai trò quan trọng
trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhằm bảo đảm và phát huy tính
dân chủ trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với tính chất
là nguyên tắc cơ bản của luật hình sự thì nguyên tắc nhân đạo luôn được Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm và thể hiện xuyên suốt trong các quy định của Bộ luật hình sự
(BLHS) đặc biệt được thể hiện rõ trong các quy định về hình phạt chính không tước
tự do. Việc áp dụng các hình phạt chính không tước tự do đã thể hiện rõ tinh thần
phân hóa tội phạm nhằm thực hiện nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự, đồng thời
góp phần hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả
phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội theo tinh thần Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị.
Đối với Thi hành án hình sự (THAHS) là một trong những hoạt động quan
trọng của Nhà nước. Hoạt động THAHS được xem là khâu cuối cùng và có ý nghĩa
quan trọng đảm bảo hiệu quả thực hiện quyền tư pháp, hiện thực hóa công lý mà Tòa
án đã nhân dân Nhà nước ban hành bản án hay Quyết định; mặt khác, thi hành án kịp
thời, nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án đối với các hành vi phạm tội chính là
biện pháp khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức và cá
nhân bị xâm hại, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Từ trước đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động THAHS. Tuy nhiên, hầu hết đều tập trung chủ
yếu vào các công tác thi hành hình phạt tù, tử hình mà chưa thực sự quan tâm đúng
mức đến các công tác thi hành các hình phạt không tước quyền tự do. Hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật về thi hành hình phạt không tước quyền tự do đã được
ban hành ở những thời điểm khác nhau nên còn nhiều bất cập, nhiều nội dung chưa
được quy định cụ thể, dẫn đến việc gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn
thi hành.Bên cạnh đó, qua thực tiễn thi hành cho thấy, hệ thống các cơ quan có thẩm
quyền trong thi hành án các hình phạt không tước quyền tự do chưa được phân công,
phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm trong quản lý, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, nhất là vai trò, trách nhiệm của Tòa án,2
UBND các cấp, MTTQ và các đoàn thể; Cơ chế giám sát, chế tài cưỡng chế khi người
bị kết án không chấp hành hoặc chấp hành án không nghiêm, có vi phạm chưa được
quy định đầy đủ, kịp thời, bảo đảm tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm.Tất
cả những tồn tại và hạn chế kể trên đã góp phần làm giảm hiệu quả thi hành hình phạt
không tước quyền tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng và ở Việt Nam nói
chung
76 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 559 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ NGỌC ANH
THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN
Hà Nội, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi Các nội
dung nghiên cứu, kết quả trong Luận văn này chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định và được ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo
Tác giả luận văn
Trần Thị Ngọc Anh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
Chương 1: NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT THI HÀNH CÁC
HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO ................................................................. 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt không tước tự do .................. 7
1.2. Pháp luật về thi hành hình phạt không tước tự do ..........................................18
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ
DO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG ........................................................29
2.1. Khái quát chung về tình hình tội phạm và việc áp dụng hình phạt không tước
tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang .............................................................................29
2.2. Thực trạng thi hành hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang............................................................................................................................39
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO
ĐẢM THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO ..................51
3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt không
tước tự do .....................................................................................................................51
3.2. Các giải pháp khác ..............................................................................................61
KẾT LUẬN ................................................................................................................66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................68
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
HĐND: Hội đồng nhân dân
HTHP: Hệ thống hình phạt
THAHS: Thi hành án hình sự
UBND: Ủy ban nhân dân
KTTD: Không tước tự do
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong luật hình sự, hình phạt được coi là phương tiện có vai trò quan trọng
trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhằm bảo đảm và phát huy tính
dân chủ trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với tính chất
là nguyên tắc cơ bản của luật hình sự thì nguyên tắc nhân đạo luôn được Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm và thể hiện xuyên suốt trong các quy định của Bộ luật hình sự
(BLHS) đặc biệt được thể hiện rõ trong các quy định về hình phạt chính không tước
tự do. Việc áp dụng các hình phạt chính không tước tự do đã thể hiện rõ tinh thần
phân hóa tội phạm nhằm thực hiện nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự, đồng thời
góp phần hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả
phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội theo tinh thần Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị.
Đối với Thi hành án hình sự (THAHS) là một trong những hoạt động quan
trọng của Nhà nước. Hoạt động THAHS được xem là khâu cuối cùng và có ý nghĩa
quan trọng đảm bảo hiệu quả thực hiện quyền tư pháp, hiện thực hóa công lý mà Tòa
án đã nhân dân Nhà nước ban hành bản án hay Quyết định; mặt khác, thi hành án kịp
thời, nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án đối với các hành vi phạm tội chính là
biện pháp khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức và cá
nhân bị xâm hại, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Từ trước đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động THAHS. Tuy nhiên, hầu hết đều tập trung chủ
yếu vào các công tác thi hành hình phạt tù, tử hình mà chưa thực sự quan tâm đúng
mức đến các công tác thi hành các hình phạt không tước quyền tự do. Hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật về thi hành hình phạt không tước quyền tự do đã được
ban hành ở những thời điểm khác nhau nên còn nhiều bất cập, nhiều nội dung chưa
được quy định cụ thể, dẫn đến việc gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn
thi hành.Bên cạnh đó, qua thực tiễn thi hành cho thấy, hệ thống các cơ quan có thẩm
quyền trong thi hành án các hình phạt không tước quyền tự do chưa được phân công,
phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm trong quản lý, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, nhất là vai trò, trách nhiệm của Tòa án,
2
UBND các cấp, MTTQ và các đoàn thể; Cơ chế giám sát, chế tài cưỡng chế khi người
bị kết án không chấp hành hoặc chấp hành án không nghiêm, có vi phạm chưa được
quy định đầy đủ, kịp thời, bảo đảm tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm......Tất
cả những tồn tại và hạn chế kể trên đã góp phần làm giảm hiệu quả thi hành hình phạt
không tước quyền tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng và ở Việt Nam nói
chung.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn để từ
đó làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả
thi hành hình phạt không tước quyền tự do là cần thiết. Điều đó không chỉ có ý nghĩa
lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết
để tôi lựa chọn đề tài “Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang”. Trong đề tài tôi lựa chọn chủ yếu nghiên cứu về
các hình phạt: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ trong các hình phạt chính
được quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, Khoản 1, Điều 32 Bộ Luật hình sự năm
2015 làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến thi hành các hình phạt không tước tự do, đã có nhiều công trình
khoa học nghiên cứu và được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau;
Trước hết, hình phạt đã được nhiều chuyên gia ở nước ngoài nghiên cứu như:
Punishment and Responsibility, Oxford, 1968; Cragg, Wesley, The Practice of
Punishment: Towards a Theory of Restorative Justice, New York, Routledge, 1992;
M. Bellmore, H.J.Greenberg and J.J.Jarvis, Generauzed Penalty - function concepts
in Mathematical optization, Georgia Institute of Technology, Atlanta, Georgia
Received June 17, 1968; v.v Còn ở Việt Nam, khoa học luật hình sự là một trong
những ngành khoa học pháp lý phát triển nhất so với các ngành khoa học pháp lý
khác, do đó xét riêng về hình phạt, cho thấy có nhiều công trình nghiên tiêu biểu ở
các cấp độ khác nhau. Cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Viện Nhà nước và Pháp
luật (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) có các đề tài của các tác giả Nguyễn Văn
Vĩnh, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1996; Vũ Lai Bằng,
Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1997; Đặng Đức Thạo, Hệ thống
hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2001; v.v Ở Khoa Luật, Đại học
3
Quốc gia Hà Nội có đề tài của Lê Khánh Hưng, Các hình phạt không tước tự do trong
luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2010; Nguyễn Văn Cảnh, Hình phạt và các biện pháp
tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam,
Hà Nội, 2010; v.v... Còn ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả
Nguyễn Sơn, Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà Nước và
Pháp luật, Hà Nội, 2003, Phạm Văn Beo, Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt
Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội 2007; Trịnh Quốc Toản, Các hình phạt bổ
sung trong luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010; v.v...
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau:
GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chương thứ 7 - Hình phạt và biện pháp tư pháp, trong Sách
chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong luật hình sự (phần chung), Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm
hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Viện Khoa học pháp lý,
Bộ Tư pháp, Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995; v.v... Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học đề cập
đến hình phạt như: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Hình phạt và các biện pháp tư pháp trong
luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 8/2000; Một số vấn đề cơ
bản về hình phạt, Tạp chí Công an nhân dân, số 5/2001; Hình phạt và hệ thống hình
phạt, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2007; GS. TSKH. Lê Cảm, TS. Trịnh Tiến Việt,
Thực trạng các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về hệ thống hình phạt và phương
hướng hoàn thiện, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 1/2009; GS.TS.
Nguyễn Ngọc Hòa, Mục đích của hình phạt, Tạp chí Luật học, số 1/1999; PGS.TS.
Trần Văn Độ, Một số vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 5/1995; PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng, Hình phạt - Một số vấn đề lý
luận, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2000; PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số
vấn đề về hình phạt quản chế trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học, chuyên
san Luật học, số 1/2004; Về hình phạt cấm cư trú trong luật hình sự Việt Nam, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2004 và Về hình phạt tiền trong luật hình sự một số
nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2003; TS. Phạm Văn Beo,
Một số vấn đề về khái niệm hình phạt, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/2005;
v.v... Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công
trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về hình phạt chính không tước tự do và hình
4
phạt bổ sung nhưng vẫn chưa thực sự được quan tâm nghiên cứu đúng mức, với tư
cách là những hình phạt chính không tước tự do quan trọng trong hệ thống hình phạt
của luật hình sự Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nước ta đang
trong tiến trình hội nhập sâu rộng trên nhiều lĩnh vực trong khu vực cũng như trên
toàn thế giới. Do vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài "Thi hành các hình phạt không tước
tự do theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang" là đề tài luận văn của
mình để tiếp nối những nghiên cứu trên, nhằm làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và thực
tiễn của vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật
về các hình phạt chính không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ)
dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng trong thực tiễn, từ đó đề ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định về hình phạt không tước tự do trong luật hình sự
Việt Nam, cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về hình
phạt này trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thi hành án hình sự, các
hình phạt chính không tước tự do là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ: Khái
niệm, đặc điểm, chủ thể, nội dung.....;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành các hình phạt chính không tước tự
do là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ trên cơ sở so sánh, đối chiếu với tình
hình thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Bắc Giang;
- Phân tích, làm rõ những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, khó khăn
trong các hình phạt chính không tước tự do là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam
giữ trên dịa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2012 đến năm 2017;
5
- Trên cơ sở nghiên cứu đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện quy định
về hình phạt chính không tước tự do trong Bộ luật hình sự Việt Nam cũng như nâng
cao hiệu quả thi hành các hình phạt chính không tước tự do trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật Việt Nam là một vấn đề
có nội dung khái quát cao, nội dung rộng. Do đó, đối tượng nghiên cứu đối với đề tài
thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc
Giang là các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động thi hành hình phạt không
tước tự do trong các văn bản pháp luật Thi hành án hình sự, văn bản pháp luật Tố
tụng hình sự và thực tiễn áp dụng hình phạt không tước tự do của Tòa án hai cấp tại
địa bàn tỉnh Bắc Giang. Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt chính không
tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ) của Tòa án nhân dân hai cấp
tại địa bàn tỉnh Bắc Giang trong 5 năm (2012 - 2017) để đề ra các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về hình phạt này trong thực tiễn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật mác – xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách
hình sự, về cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng khóa
VII, VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị
quyết số 49 – NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy
nạp; phương pháp thống kê, để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn
đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Trên cơ sở tổng hợp các quan điểm khoa học về hình phạt, cũng như về các
hình phạt không tước tự do để xây dựng nên khái niệm các hình phạt chính không
tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ), bảo đảm tính chính xác, khoa
6
học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của các hình phạt chính không tước tự do.
Bên cạnh đó việc nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về thực tiễn thi hành
các hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cũng chỉ ra các hạn chế,
tồn tại trong thi hành các hình phạt không tước tự do cũng như những nguyên nhân
của những tồn tại, hạn chế đó. Trên cơ sở này, luận văn đề xuất các phương hướng,
giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt
chính không tước tự do trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách
tư pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật thi hành các hình phạt không
tước tự do.
Chương 2: Thực trạng thi hành hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang và một số tồn tại vướng mắc.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thi hành các hình
phạt không tước tự do.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT THI HÀNH CÁC HÌNH
PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt không tước tự do
1.1.1. Khái niệm thi hành hình phạt không tước tự do.
Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành
án hình sự có mối quan hệ hữu cơ với các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Trên cả bình diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy nếu mục đích của thi hành án
không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó
cũng trở nên vô nghĩa. Khi một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi
phạm, quyền lực Nhà nước không được thực hiện, pháp luật bị buông lỏng. Bởi vậy,
việc đảm bảo việc thi hành của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu tất
yếu khách quan.
Mặt khác, quá trình thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực
Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực
tiễn. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành là lúc công lý được thực hiện trong
cuộc sống. Thi hành án hình sự có vai trò quan trọng nhằm đảm bảo mục đích của
hình phạt là không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục cải tạo
họ trở thành công dân có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời giáo
dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm. Bởi vậy,
để thực hiện vai trò đó và đảm bảo pháp chế của hoạt động này thì việc pháp điển hóa
toàn bộ các quy định về quá trình thi hành án hình sự là yêu cầu cấp thiết, tránh sự
tùy tiện, vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị kết án.
Các hình phạt nói chung và các hình phạt chính không tước tự do nói riêng
(cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ) có vai trò quan trọng không chỉ bảo đảm
nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt mà còn thể hiện
được rõ nguyên tắc nhân đạo của Luật Hình sự. Hoạt động thi hành án hình sự đối
với các hình phạt không tước tự do bên cạnh những đặc điểm chung còn những đặc
8
thù riêng biệt. Sự khác biệt này xuất phát từ đặc thù của từng loại hình phạt và mục
đích, đối tượng áp dụng. Người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội, họ được cải
tạo, giáo dục, thi hành án trong môi trường sống và hoạt động với các công dân bình
thường khác. Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính
quyền địa phương nơi họ làm việc hoặc sinh sống. Môi trường không giam giữ sẽ có
những đặc thù riêng và mỗi hình phạt không tước tự do lại có thêm những đặc thù
riêng. Hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của thi hành án hình
sự, cũng như bản chất của thi hành các hình phạt không tước tự do. Có quan điểm
cho rằng thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử [8,tr.8]. Có quan điểm
cho rằng, thi hành các hình phạt không tước tự do là một giai đoạn của quá trình tố
tụng và do vậy được điều chỉnh bằng các quy phạm của luật tố tụng hình sự. Nhưng
cũng có ý kiến cho rằng, thi hành các hình phạt không tước tự do là một hoạt động
hành chính – tư pháp hình sự, có những nét đặc thù riêng khác với hoạt động tố tụng
hình sự. Một số khác thì coi thi hành các hình phạt không tước tự do như là luật hình
sự kéo dài. Việc xác định thi hành các hình phạt không tước tự do là một giai đoạn tố
tụng, luật hình sự kéo dài hay là hoạt động hành chính - tư pháp có ý nghĩa quan trọng
để làm sáng tỏ bản chất thi hành án hình sự, nói chung và thi hành các hình phạt
không tước tự do nói riêng, mà xác định bản chất của thi hành các hình phạt không
tước tự do là một trong những vấn đề quan trọng của thi hành các hình phạt không
tước tự do. Bởi lẽ, xác định đúng bản chất thi hành các hình phạt không tước tự do
có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện, đặc biệt là tạo ra cơ chế quản lý, mô
hình tổ chức và hoạt động phù hợp nhằm bảo đảm thi hành các hình phạt không tước
tự do.
Như vậy, có thể nêu một cách khái quát định nghĩa về khái niệm thi hành các
hình phạt không tước tự do như sau: Thi hành hình phạt không tước tự do là hoạt
động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật buộc
người chấp hành các hình phạt không tước tự do phải tuân thủ, chấp hành các hình
phạt mà Tòa án đã tuyên án đối với họ tại phiên tòa, phù hợp với tính chất, mức độ
nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức
và công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ phạm t