Luận văn Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Hoài Đức (Hà Nội)

Với tư cách là một thiết chế chính trị - xã hội, một hình thức nhà nước, dân chủ có mối quan hệ hữu cơ với pháp luật, bởi pháp luật là một yếu tố cấu thành của nội dung dân chủ. Nền dân chủ chúng ta đã và đang phấn đấu xây dựng là nền dân chủ triệt để, trong đó nội dung cơ bản nhất là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Mặt khác, dân chủ phải đi liền với kỷ cương, pháp chế. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hoà giữa quyền và trách nhiệm, gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của sự phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ". Câu nói toát lên sự đồng nhất, tính xuyên suốt của những vấn đề xoay xung quanh chữ DÂN. Với ý nghĩa đó, dân là "tất cả". Bắt đầu từ DÂN, mọi việc do DÂN, kết cục vì DÂN. DÂN vừa là điểm xuất phát, vừa là mục tiêu cuối cùng. DÂN là chủ thể xuyên suốt, là động lực quyết định mọi sự phát triển: "mọi việc do dân". 80 năm qua, vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về mối quan hệ giữa dân chủ và nhà nước, giữa Đảng và nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở trong mọi hoạt động đời sống xã hội. Quá trình thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở đã làm chuyển biến đáng kể nhận thức của cấp ủy, chính quyền và đoàn thể, phát huy được quyền làm chủ trực tiếp của cán bộ, công chức, người lao động, góp phần tích cực, hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, xây dựng khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở, tạo động lực quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Tìm hiểu việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra những nội dung, hình thức, giải pháp thiết thực, hiệu quả, nhằm nâng cao ý thức thực hiện pháp luật của người dân trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt phương châm “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, phát huy mạnh mẽ dân chủ ở cơ sở với quyền tham gia ngày một rộng rãi, bình đẳng và thiết thực của nhân dân vào việc quản lý xã hội của Nhà nước là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới. Bên cạnh những cố gắng và thành tựu bước đầu đạt được, việc thực hiện pháp luật về dân chủ trên từng địa phương còn có những hạn chế, thiếu sót, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Có nơi, có lúc, quyền làm chủ của nhân dân chưa thực sự được tôn trọng và phát huy một cách tối đa. Các chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở chưa thực làm tròn vai trò, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Với những lý do đó, học viên xin chọn đề tài Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Hoài Đức (Hà Nội) làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lý luËn vµ lịch sử nhà nước và pháp luật.

doc123 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 4342 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Hoài Đức (Hà Nội), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Häc viÖn chÝnh trÞ - hµnh chÝnh quèc gia hå chÝ minh V­¬ng ngäc thÞnh thùc hiÖn ph¸p luËt vÒ d©n chñ ë c¬ së trªn ®Þa bµn huyÖn hoµi ®øc, hµ néi Chuyªn ngµnh: Lý luËn vµ lÞch sö nhµ n­íc vµ ph¸p luËt M· sè : 603801 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: TS Lª Thiªn H­¬ng Hµ Néi - 2010 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT PLDC : Pháp lệnh dân chủ QCDC: Quy chế dân chủ HĐND: Hội đồng nhân dân UBND: Ủy ban nhân dân MTTQ: Mặt trận Tổ quốc MỤC LỤC MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Với tư cách là một thiết chế chính trị - xã hội, một hình thức nhà nước, dân chủ có mối quan hệ hữu cơ với pháp luật, bởi pháp luật là một yếu tố cấu thành của nội dung dân chủ. Nền dân chủ chúng ta đã và đang phấn đấu xây dựng là nền dân chủ triệt để, trong đó nội dung cơ bản nhất là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Mặt khác, dân chủ phải đi liền với kỷ cương, pháp chế. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hoà giữa quyền và trách nhiệm, gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của sự phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ". Câu nói toát lên sự đồng nhất, tính xuyên suốt của những vấn đề xoay xung quanh chữ DÂN. Với ý nghĩa đó, dân là "tất cả". Bắt đầu từ DÂN, mọi việc do DÂN, kết cục vì DÂN. DÂN vừa là điểm xuất phát, vừa là mục tiêu cuối cùng. DÂN là chủ thể xuyên suốt, là động lực quyết định mọi sự phát triển: "mọi việc do dân". 80 năm qua, vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về mối quan hệ giữa dân chủ và nhà nước, giữa Đảng và nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở trong mọi hoạt động đời sống xã hội. Quá trình thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở đã làm chuyển biến đáng kể nhận thức của cấp ủy, chính quyền và đoàn thể, phát huy được quyền làm chủ trực tiếp của cán bộ, công chức, người lao động, góp phần tích cực, hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, xây dựng khối đoàn kết trong cơ quan, đơn vị, giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở, tạo động lực quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Tìm hiểu việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra những nội dung, hình thức, giải pháp thiết thực, hiệu quả, nhằm nâng cao ý thức thực hiện pháp luật của người dân trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt phương châm “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, phát huy mạnh mẽ dân chủ ở cơ sở với quyền tham gia ngày một rộng rãi, bình đẳng và thiết thực của nhân dân vào việc quản lý xã hội của Nhà nước là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới. Bên cạnh những cố gắng và thành tựu bước đầu đạt được, việc thực hiện pháp luật về dân chủ trên từng địa phương còn có những hạn chế, thiếu sót, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Có nơi, có lúc, quyền làm chủ của nhân dân chưa thực sự được tôn trọng và phát huy một cách tối đa. Các chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở chưa thực làm tròn vai trò, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Với những lý do đó, học viên xin chọn đề tài Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Hoài Đức (Hà Nội) làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lý luËn vµ lịch sử nhà nước và pháp luật. Tình hình nghiên cứu đề tài Sách Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa”, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991; Nguyễn Khắc Mai: “Dân chủ - di sản văn hóa Hồ Chí Minh”, NXB Sự thật, Hà Nội 1997; Nguyễn Đình Lộc: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân”; Lương Gia Ban: “Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, NXB CTQG, Hà Nội, 2003… Các công trình này tập trung làm rõ giá trị nên tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa, đánh giá khách quan những thành quả, tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản có được cũng như chỉ ra hạn chế do bản chất giai cấp tư sản quy định. Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 7-1989; Nguyễn Tiến Phồn: “Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực tiễn”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001 Những tác phẩm này đã nêu rõ thành công, hạn chế trong xây dựng và thực hiện nền dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Nêu ra những nguyên nhân, hạn chế và giải pháp khắc phục. Tạp chí Hoàng Chí Bảo: “Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: Quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 9-1992; Trần Quang Nhiếp: “Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một hệ giải pháp đồng bộ thống nhất”, Báo Đại Đoàn kết, ngày 1-12-1997; PGS, TS Hoàng Văn Hảo: “Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2003… Những bài viết trên bổ sung nhận thức mới, đề xuất cách làm mới để xây dựng, thực hiện dân chủ phù hợp với đặc điểm lịch sử, truyền thống của dân tộc, đặc điểm của thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Công trình luận án, luận văn Luận án: Lưu Minh Trị: “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ, 1993; Nguyễn Văn Long: “Lệ làng truyền thống với việc hình thành ý thức pháp luật cho nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Luận án tiến sĩ, 2002… Luận văn: Trần Quốc Huy: Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Hà Nội, 2005; Lê Xuân Huy: Ý thức pháp luật với quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay (Qua thực tế một số tỉnh phía Bắc), Luận văn thạc sĩ Triết học, 2005 Có thể thấy, đã có nhiều công trình viết dân chủ, dân chủ ở cơ sở với phạm vi nghiên cứu khác nhau, có giá trị nghiên cứu khác nhau, làm rõ bản chất, nội dung, tính chất, cơ chế thực hiện dân chủ và vai trò của việc mở rộng quyền làm chủ của nhân dân đối với sự phát triển kinh tế xã hội và tiến bộ xã hội. Một số công trình đã nghiên cứu vấn đề dân chủ ở cơ sở trên địa bàn nông thôn. Song việc đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, đáp ứng nhu cầu dân chủ của người dân thời kỳ mở cửa hội nhập còn nhiều ý kiến khác nhau. Với đề tài nghiên cứu Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Hoài Đức (Hà Nội), Luận văn đi vào nghiên cứu những quan điểm của Đảng và Nhà nước về dân chủ ở cơ sở; khảo sát thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức (Hà Nội) hiện nay; trên cơ sở đó đề xuất, kiÕn nghị quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của địa phương trong thời gian tới. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn Đề tài tiến hành nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục tiêu nghiên cứu của luận văn Qua phân tích những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở; từ việc đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức luận văn đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức (Hà Nội). Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Phân tích những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở cơ sở; - Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức (Hà Nội), thành công, hạn chế, nguyên nhân. - Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức (Hà Nội) trong thời gian tới. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về nhà nước và pháp luật, về thực hiện dân chủ ở cơ sở. - Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trong đó sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích tổng hợp, thống kê và so sánh, phương pháp lịch sử và logic… Đóng góp của luận văn - Góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. - Làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức (Hà Nội) với những thành công, hạn chế. - Nêu quan điểm và một số giải pháp có tính khả thi để nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức (Hà Nội) trong giai đoạn hiện nay. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ Khái niệm pháp luật về dân chủ ở cơ sở Khái niệm dân chủ, khái niệm về dân chủ cơ sở Khái niệm dân chủ: Thuật ngữ “dân chủ” ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại, khoảng thế kỷ thứ VII-VI trước công nguyên. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ là do hai từ hợp thành, “demos” là nhân dân và “kuatos” là quyền lực hay chính quyền. “Demoskratia” – dân chủ - có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định” Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội, 1995 . Như vậy, dân chủ được coi là tiêu chí đánh giá cách thức, trình độ tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Song vấn đề dân chủ luôn là vấn đề phức tạp, có nội dung rộng lớn, luôn luôn mới, gắn với những tiến bộ về lịch sử và văn hóa của loài người. Để nghiên cứu, hiểu rõ bản chất, tính chất và nội dung của dân chủ phải xem xét nó dưới các góc độ, khía cạnh khác nhau. Bản thân thuật ngữ dân chủ được tiếp cận dưới nhiều góc độ: Triết học, chính trị; dân chủ là một hình thái nhà nước; dân chủ là một hiện thực chính trị;dân chủ là một hiện thực kinh tế, một hiện thực xã hội và dân chủ là một trạng thái của hệ thống quan hệ quốc tế. Nếu xét theo trình độ phát triển của lịch sử nhân loại thì có các nền dân chủ: dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Về mặt phạm vi, dân chủ rất toàn diện, bao quát các lĩnh vực đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa tư tưởng; từ các mối quan hệ giữa con người với con người đến quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với Nhà nước, giữa các tổ chức và thể chế hiện hành, giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Hiện nay, với quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, dân chủ còn được hiểu như là phương thức, cách thức tổ chức, là thước đo số cá thể (cá nhân, tổ chức) tham gia vào quá trình xã hội hóa công nghệ, tài chính, thông tin, văn hóa. Song, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì thực chất nội dung, tính chất và khuynh hướng phát triển của dân chủ là hoàn toàn phụ thuộc vào chỗ quyền lực chính trị thuộc về ai, phục vụ ai trong mối quan hệ, trong cộng đồng và xã hội đó. Sự phát triển của dân chủ phụ thộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, năng lực nhận thức của công dân và chính quyền, truyền thống lịch sử, văn hóa, pháp lý,…Dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển của quốc gia, dân tộc. Dân chủ là khát vọng được làm chủ, là quyền tự nhiên của con người trong đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người chủ và quyền làm chủ đó có lúc, có nơi đã được những người cầm quyền trong lịch sử nhận thức và thể chế thành pháp luật thực định cùng các thiết chế chính trị - xã hội khác. Song, chỉ đến khi nền dân chủ vô sản – dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời, thì đó mới là chế độ dân chủ thực sự, dân chủ của đa số nhân dân với sự đảm bảo thực hiện của pháp luật, của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. - Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa Dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin là một hiện tượng lịch sử gắn liền với xã hội có giai cấp và được biến đổi dưới nhiều hình thức khác nhau trong điều kiện tương ứng của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, “dân chủ” có một chất lượng mới do được phát triển đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, nhờ đó con người được giải phóng và phát triển toàn diện. Trong đó, “sự phát triển của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người” Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr 51 Theo chủ nghĩa Mác – Lênin dân chủ trước hết là một hình thức Nhà nước. V. I Lênin viết: “ Chế độ dân chủ, đó là một Nhà nước thừa nhận việc thiểu số phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức đảm bảo cho một giai cấp thi hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại giai cấp khác” Lênin toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Matsxcova, 1978, tr 101 . Vì vậy, dân chủ luôn mang tính giai cấp, nó tồn tại và biến đổi cùng với sự biến đổi của cuộc đấu tranh giai cấp và sự thay đổi của phương thức sản xuất chủ yếu của xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hiện tượng hợp quy luật, là bước phát triển cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ khác và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, để con người có thể thực hiện được những quyền tự nhiên của mình, tự làm chủ vận mệnh và quyết định những vấn đề xã hội. Theo C.Mác, dân chủ xã hội chủ nghĩa thực chất là chế độ “do nhân dân tự quy định Nhà nước”, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước. Nhân dân tự tổ chức quyền lực nhà nước qua bầu cử, tham gia quản lý và quyết định những vấn đề quan trọng, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Lênin đã khái quát quyền dân chủ trong lĩnh vực chính trị của dân thành ba nội dung lớn: quyền bầu cử, quyền tham gia quản lý các công việc của Nhà nước và quyền bãi miễn. Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm cơ bản sau: + Dân chủ cho nhân dân lao động + Dân chủ thực sự + Dân chủ toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa…thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tham gia một cách thực sự bình đẳng và ngày càng rộng rãi của những người lao động vào quản lý công việc Nhà nước và xã hội. Thống nhất được quyền và nghĩa vụ của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước. Vì vậy, nó trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ: Tiếp thu và kế thừa các quan điểm về “dân chủ” của nhân loại, Hồ Chí Minh lý giải khái niệm “dân chủ” một cách đơn giản, hết sức cô đọng và dễ hiểu, dễ thực hiện và kiểm soát. Người nói: “ Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ” Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tr 251. , “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tr 525. . Người viết: Nước ta là nước dân chủ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân Bao nhiêu quyền hạn đều của dân Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tr 698. Như vậy, “dân là chủ” và “dân làm chủ” là cốt lõi trong khái niệm “dân chủ” của Hồ Chí Minh. Quan điểm trên thể hiện nội dung cơ bản mà nhân loại thừa nhận: dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Song nghiên cứu về dân chủ, chúng ta phải đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, khi dùng khái niệm “nhân dân” không bao giờ được đánh đồng các giai cấp, tầng lớp.Vì dân chủ gắn liền với xã hội có giai cấp, khái niệm dân có thể thay đổi về số lượng, chất lượng và đối tượng tùy theo tính chất của một xã hội trong từng thế kỷ, từng nấc thang phát triển nhất định. Có thể nói, khái niệm dân đồng nhất với khái niệm nhân dân, dân chúng, quần chúng nhân dân.Và việc thực hiện cho được “dân là chủ, dân làm chủ” đấy chính là thực hiện sứ mệnh lịch sử, vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, bởi vì quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng, là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và sáng tạo ra những giá trị tính thần, nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Khái niệm dân chủ cơ sở: Quần chúng nhân dân là những người trực tiếp sản xuất ra những giá trị vật chất và sáng tạo ra giá trị tinh thần. Trong lao động và sinh sống, nhân dân luôn gắn bó mật thiết với một đơn vị, một tổ chức, một địa bàn dân cư nhất định. Bất cứ một tổ chức nào, xét theo hệ thống cấu trúc, cũng bao gồm hệ thống cấu trúc từ nhỏ đến lớn. Những cấu trúc nhỏ nhất trong một hệ thống có tư cách như một chỉnh thể tương đối hoàn chỉnh, độc lập, là nền tảng cho toàn bộ hệ thống được gọi là cơ sở. Cơ sở là “tế bào” của hệ thống. Bất cứ một công dân, một thành viên nào của tổ chức cũng đều gắn bó và sinh sống, lao động, học tập ở một cơ sở nhất định trong hệ thống. Đó chính là xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế cơ sở…nơi diễn ra các quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân. Hệ thống chính trị của nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, được tổ chức thành 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện và xã (cơ sở) là cấp cuối cùng. Xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác nhất đường lối của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong thực tiễn khách quan. Dân chủ, với ý nghĩa tối cao nhất là quyền tự nhiên của con người được thực hiện trước hết là ở cơ sở. Nhân dân có quyền được biết, được bàn và được tham gia giải quyết và kiểm tra giám sát mọi hoạt động diễn ra ở cơ sở. Dân chủ ở cơ sở được thực hiện dưới hình thức gián tiếp và dân chủ trực tiếp ,là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng đối với những vấn đề về tổ chức và hoạt động ở cơ sở.Dân chủ trực tiếp là hệ thống báo động nhạy cảm nhất những vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa. Dân chủ trực tiếp giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm chính sách pháp luật một cách nhanh nhất, sát với thực tế khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa chính quyền với nhân dân. Tăng cường, hoàn thiện và thực hiện dân chủ thực sự là mục tiêu lâu dài và thường xuyên của Đảng và Nhà nước.Mỗi bước phát triển của dân chủ phải được ghi nhận bởi các quy định của pháp luật. Dân chủ phải gắn liền với pháp luật và thực hiện pháp luật. Song việc phát huy và mở rộng dân chủ phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của mỗi cộng đồng, dân chủ gắn liền với kỷ cương. Hiện tại, các quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở của Nhà nước ta mới chỉ thể chế đối với cơ sở ở xã, phường, thị trấn, cơ quan doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong đó, dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một nội dung quan trọng, chủ yếu đề cập đến thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền 4 cấp ở nước ta theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Còn rất nhiều loại hình cơ sở khác chưa có quy định về thực hiện dân chủ đặt ra cho Đảng, Nhà nước yêu cầu tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Khái niệm pháp luật về dân chủ cơ sở Quan điểm của học thuyết Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật đã giải thích một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan hệ của nó với các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp. Pháp luật chỉ phát sinh và tồn tại, phát triển trong xã hội có giai cấp. Pháp luật vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện tính xã hội. Mức độ đậm, nhạt c
Tài liệu liên quan