Luận văn Thực trạng tự đánh giá năng lực giảng dạy của giáo viên cơ sởII Trường Đại học Lao động– Xã hội TP.Hồ Chí Minh

1.1 Cùng với loài người, dân tộc Việt Nam đang sống những năm tháng đầu tiên của thếkỷ mới, thếkỷXXI, cũng là mở đầu thiên niên kỷmới, thiên niên kỷthứba. Thếkỷmà khoa học đã trởthành lực lượng sản xuất trực tiếp. Giờ đây, giai đoạn bùng nổkiến thức, thông tin trong đà tiến lên nhưvũbão của cách mạng khoa học và công nghệkhông những đưa vai trò con người và nhân tốcon người ởhàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội, mà còn định hình ngày càng rõ hơn vai trò của nguồn lực trí tuệ, của con người trí tuệ. Không có nguồn lực này, con người này, không thểhình dung nổi lực lượng sản xuất hiện đại và kinh tếtri thức. Tri thức và trí tuệtrởthành một quyền lực. Chuyển mình cùng thời đại, nước ta bước vào thời kỳcông nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với nhiều biến đổi sâu sắc và tầm vóc to lớn với nhịp độphát triển ngày càng cao. Làm thếnào đểcó nguồn lực trí tuệ đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay? Đó là một bài toán mà ngành giáo dục cần phải giải quyết. 1.2 Thực tếgiáo dục nước ta hiện nay quy mô tăng, điều kiện thiếu, dẫn đến chất lượng giảm. Chính vì vậy nghịquyết đại hội Đảng lần thứX đã chỉrõ phương hướng phấn đấu của nền giáo dục nước ta trong giai đoạn mới là : nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện , đổi mới cơcấu tổchức, nội dung, phương pháp dạy và học thực hiện “ chuẩn hóa, hiện đại hoá, xã hội hoá” chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Lực lượng chủyếu thực hiện phương hướng trên là đội ngũgiáo viên nhưUsinxki đã khẳng định : “Trong việc giáo dục, tất cả phải dựa vào nhân cách người giáo dục”.[25, tr.189 ] Chỉcần một người thầy không đủ năng lực và phẩm chất thì sẽ ảnh hưởng xấu đến thếhệtrẻsau này. 1.3 Vấn đềnhân cách người giáo viên nói chung, năng lực giảng dạy nói riêng đáp ứng được những yêu cầu của xã hội là vấn đềbức thiết hiện nay. Do đó, người giáo viên phải nỗ lực phấn đấu, không ngừng học tập rèn luyện nhân cách nói chung và năng lực giảng dạy nói riêng cho mình. Vềvấn đềnhân cách người giáo viên nói chung và năng lực giảng dạy nói riêng, từtrước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết có giá trị. Nhưng các tác giảmới chỉnghiên cứu nhân cách, năng lực chung của người giáo viên, chưa nghiên cứu năng lực giảng dạy ởtừng lĩnh vực cụthể. Do đó việc làm sáng tỏnăng lực giảng dạy của người giáo viên đối với từng lĩnh vực cụthểtừsựtự đánh giá của họlà rất quan trọng và cần thiết trong việc nâng cao năng lực giảng dạy lĩnh vực đó, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. 1.4 CơsởII Trường Đại học Lao động - Xã hội TP. HồChí Minh ( Trường có quyết định nâng cấp từTrường Trung học Lao động – Xã hội vào ngày 1 tháng 1 năm 2007) trực thuộc BộLao động Thương binh và Xã hội. Hiện nay Trường đang đào tạo học sinh có trình độ trung học các chuyên ngành: Quản trịnhân lực, Lao động - Xã hội, Kếtoán. Bên cạnh đó, Trường còn cộng tác với cơsởI Trường Đại học Lao động - Xã hội Hà Nội để đào tạo sinh viên có trình độcao đẳng vềQuản lý lao động và Công tác xã hội. Trong năm học 2007 - 2008 Trường dựkiến xét tuyển 100 chỉtiêu đại học, 200 chỉtiêu cao đẳng và khoảng 1000 chỉtiêu trung học. Do vậy việc tìm hiểu năng lực giảng dạy của đội ngũgiáo viên của Trường, để đưa ra những biện pháp nâng cao năng lực giảng dạy cho đội ngũgiáo viên, đáp ứng nhu cầu phát triển của Trường là vấn đềcấp thiết hiện nay. Từnhững lý do nêu trên, việc tiến hành thực hiện nghiên cứu đềtài : “Thực trạng tự đánh giá năng lực giảng dạy của giáo viên cơsởII Trường Đại học Lao động– Xã hội TP.HồChí Minh” là hết sức cần thiết và cấp bách

pdf109 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2146 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng tự đánh giá năng lực giảng dạy của giáo viên cơ sởII Trường Đại học Lao động– Xã hội TP.Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH --------------------------- VŨ THỊ LỤA THỰC TRẠNG TỰ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC GIẢNG DẠY CỦA GIÁO VIÊN CƠ SỞ II TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – Xà HỘI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tâm lí học Mã số: 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ THU MAI Thành phố Hồ Chí Minh - 2007 LỜI CẢM ƠN Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ – Sau Đại học, Khoa Tâm lí – Giáo dục Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt khoá học và trong quá trình hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô giáo đã tận tình giảng dạy, chỉ dẫn, cung cấp tài liệu và mang lại cho tôi những kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian theo học tại trường . Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô hướng dẫn luận văn tốt nghiệp của tôi TS. Trần Thị Thu Mai, người đã tận tình quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn. Xin được cảm ơn Ban Giám Hiệu, quý Thầy, Cô giáo cơ sở II Trường Đại học Lao Động – Xã Hội Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Sau cùng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, những người luôn động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn. TP. Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 năm 2007 Vũ Thị Lụa DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ ĐHLĐXH TP. HCM Đại học Lao động – Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh TB Trung bình NLGD Năng lực giảng dạy NL1 Năng lực hiểu học sinh trong quá trình giảng dạy NL2 Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên NL3 Năng lực chế biến tài liệu học tập NL4 Nắm vững kỹ thuật giảng dạy NL5 Năng lực ngôn ngữ MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1 Cùng với loài người, dân tộc Việt Nam đang sống những năm tháng đầu tiên của thế kỷ mới, thế kỷ XXI, cũng là mở đầu thiên niên kỷ mới, thiên niên kỷ thứ ba. Thế kỷ mà khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Giờ đây, giai đoạn bùng nổ kiến thức, thông tin trong đà tiến lên như vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ không những đưa vai trò con người và nhân tố con người ở hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội, mà còn định hình ngày càng rõ hơn vai trò của nguồn lực trí tuệ, của con người trí tuệ. Không có nguồn lực này, con người này, không thể hình dung nổi lực lượng sản xuất hiện đại và kinh tế tri thức. Tri thức và trí tuệ trở thành một quyền lực. Chuyển mình cùng thời đại, nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với nhiều biến đổi sâu sắc và tầm vóc to lớn với nhịp độ phát triển ngày càng cao. Làm thế nào để có nguồn lực trí tuệ đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay? Đó là một bài toán mà ngành giáo dục cần phải giải quyết. 1.2 Thực tế giáo dục nước ta hiện nay quy mô tăng, điều kiện thiếu, dẫn đến chất lượng giảm. Chính vì vậy nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ phương hướng phấn đấu của nền giáo dục nước ta trong giai đoạn mới là : nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện , đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học thực hiện “ chuẩn hóa, hiện đại hoá, xã hội hoá” chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Lực lượng chủ yếu thực hiện phương hướng trên là đội ngũ giáo viên như Usinxki đã khẳng định : “Trong việc giáo dục, tất cả phải dựa vào nhân cách người giáo dục”.[25, tr.189 ] Chỉ cần một người thầy không đủ năng lực và phẩm chất thì sẽ ảnh hưởng xấu đến thế hệ trẻ sau này. 1.3 Vấn đề nhân cách người giáo viên nói chung, năng lực giảng dạy nói riêng đáp ứng được những yêu cầu của xã hội là vấn đề bức thiết hiện nay. Do đó, người giáo viên phải nỗ lực phấn đấu, không ngừng học tập rèn luyện nhân cách nói chung và năng lực giảng dạy nói riêng cho mình. Về vấn đề nhân cách người giáo viên nói chung và năng lực giảng dạy nói riêng, từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết có giá trị. Nhưng các tác giả mới chỉ nghiên cứu nhân cách, năng lực chung của người giáo viên, chưa nghiên cứu năng lực giảng dạy ở từng lĩnh vực cụ thể. Do đó việc làm sáng tỏ năng lực giảng dạy của người giáo viên đối với từng lĩnh vực cụ thể từ sự tự đánh giá của họ là rất quan trọng và cần thiết trong việc nâng cao năng lực giảng dạy lĩnh vực đó, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. 1.4 Cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội TP. Hồ Chí Minh ( Trường có quyết định nâng cấp từ Trường Trung học Lao động – Xã hội vào ngày 1 tháng 1 năm 2007) trực thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Hiện nay Trường đang đào tạo học sinh có trình độ trung học các chuyên ngành: Quản trị nhân lực, Lao động - Xã hội, Kế toán. Bên cạnh đó, Trường còn cộng tác với cơ sở I Trường Đại học Lao động - Xã hội Hà Nội để đào tạo sinh viên có trình độ cao đẳng về Quản lý lao động và Công tác xã hội. Trong năm học 2007 - 2008 Trường dự kiến xét tuyển 100 chỉ tiêu đại học, 200 chỉ tiêu cao đẳng và khoảng 1000 chỉ tiêu trung học. Do vậy việc tìm hiểu năng lực giảng dạy của đội ngũ giáo viên của Trường, để đưa ra những biện pháp nâng cao năng lực giảng dạy cho đội ngũ giáo viên, đáp ứng nhu cầu phát triển của Trường là vấn đề cấp thiết hiện nay. Từ những lý do nêu trên, việc tiến hành thực hiện nghiên cứu đề tài : “Thực trạng tự đánh giá năng lực giảng dạy của giáo viên cơ sở II Trường Đại học Lao động – Xã hội TP.Hồ Chí Minh” là hết sức cần thiết và cấp bách. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và điều tra thực tiễn, đề tài tiến hành tìm hiểu thực trạng tự đánh giá NLGD của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM. Từ đó đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao NLGD của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM để đáp ứng với sự phát triển của Trường hiện nay. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về NLGD của người giáo viên, ý thức, tự ý thức, đánh giá, tự đánh giá, tự đánh giá của giáo viên. - Khảo sát thực trạng tự đánh giá NLGD của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao NLGD của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tự đánh giá NLGD của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM 4.2. Khách thể nghiên cứu Cán bộ quản lý: Các Phó giám đốc, Trưởng Phó phòng ban, Trưởng Phó khoa, Ban thanh tra giáo dục .Tất cả giáo viên (60 giáo viên) cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM. 5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC - Đa số giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM tự đánh giá ở mức khá về NLGD. - Có sự khác biệt về sự tự đánh giá NLGD giữa các nhóm khách thể nghiên cứu theo giới tính, trình độ đào tạo, chuyên ngành được đào tạo và thâm niên công tác. - Có sự tương quan có ý nghĩa giữa các kết quả tự đánh giá từng mặt năng lực trong NLGD và sự tương quan giữa từng mặt năng lực với NLGD nói chung của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM. 6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU Nội dung nghiên cứu Chỉ tập trung tìm hiểu về thực trạng tự đánh giá NLGD: Năng lực hiểu học sinh trong quá trình giảng dạy, tri thức và tầm hiểu biết, năng lực chế biến tài liệu học tập, nắm vững kỹ thuật giảng dạy và năng lực ngôn ngữ của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM. Khách thể nghiên cứu Cán bộ quản lý: Các Phó giám đốc, Trưởng Phó phòng ban, Ban thanh tra giáo dục .Tất cả giáo viên (60 giáo viên) cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM . 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận Phương pháp chủ yếu để nghiên cứu lý luận là phương pháp nghiên cứu tài liệu. Phương pháp này diễn ra theo giai đoạn như phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa những lý thuyết, cũng như những nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước trên cơ sở các công trình đã được đăng tải trên các sách báo, các đề cương bài giảng về các vấn đề liên quan đến đề tài. 7.2 Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1 Phương pháp điều tra bằng anket Sử dụng hệ thống bảng câu hỏi đối với giáo viên nhằm thu thập số liệu, đánh giá thực trạng tự đánh năng lực giảng dạy của giáo viên cơ sở II Trường Đại học Lao động - Xã hội. Ankét được xây dựng trên cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu và trên cơ sở phiếu thăm dò ý kiến được phát ra để điều tra thử trên diện hẹp (20 giáo viên), từ đó đưa ra những chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo tính phù hợp, độ tin cậy của bộ công cụ để tiến hành điều tra trên diện rộng. Anket tập trung vào các nội dung cần tìm hiểu sau: Tự đánh giá các lí do chọn nghề dạy học của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TP. HCM. Tự đánh giá về NLGD của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TP. HCM. Có 5 bậc điểm được quy ước như sau 5M là mức độ rất tốt (ứng với 5 điểm) 4M là mức độ tốt (ứng với 4 điểm) 3M là mức độ khá (ứng với 3 điểm) 2M là mức độ trung bình (ứng với 2 điểm) 1M là mức độ dưới trung bình (ứng với 1 điểm) Tự đánh giá cơ sở đem lại năng lực giảng dạy của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TP. HCM. 7.2.2 Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện Phỏng vấn các Phó giám đốc, Trưởng Phó phòng ban, Trưởng Phó khoa, Ban thanh tra giáo dục để nắm bắt thêm tình hình thực tế NLGD của giáo viên, nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó và các biện pháp nhằm nâng cao NLGD của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TP. HCM. Tham khảo ý kiến các chuyên gia với mục đích tìm các kết luận thoả đáng trong việc đánh giá thực trạng tự đánh giá NLGD của giáo viên và đề xuất các biện pháp nâng cao NLGD của giáo viên. 7.2.3 Phương pháp quan sát Dự giờ các giáo viên, mỗi giáo viên dự 2 tiết nhằm thu thập những thông tin cần thiết bổ sung cho việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. 7.2.4 Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động Nghiên cứu bài giảng, giáo án của một số giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM để tìm hiểu năng lực giảng dạy của giáo viên. 7.2.5Phương pháp thực nghiệm Thử nghiệm biện pháp nâng cao năng lực chế biến tài liệu giảng dạy. 7.3 Phương pháp sử dụng toán thống kê Dùng phương pháp toán thống kê để xử lý số liệu điều tra, phân tích kết quả nghiên cứu, định lượng chính xác cho từng nội dung nâng cao tính thuyết phục của các số liệu được nêu ra trong luận văn. Trong luận văn này các phép toán sau được sử dụng: - Tính trung bình cộng, độ lệch tiêu chuẩn: Giá trị trung bình và độ lệch tiêu chuẩn được sử dụng và thể hiện trong hầu hết các bảng số liệu dùng để tính toán và mô tả thực trạng tự đánh giá NLGD của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM - Hệ số tương quan Pearson: Trong nghiên cứu này, hệ số tương quan Pearson đã được dùng để phản ánh tương quan giữa các kết quả tự đánh giá NLGD và từng mặt năng lực cụ thể cấu thành nên NLGD và tương quan giữa các mặt năng lực trong NLGD của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM. - Kiểm nghiệm giả thuyết: Để kiểm chứng giả thuyết về tác động của giới tính, trình độ được đào tạo, thâm niên giảng dạy, chuyên ngành giảng dạy đối với NLGD của giáo viên cơ sở II Trường ĐHLĐXH TPHCM, phương pháp kiểm nghiệm F đã được áp dụng. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Giáo dục là vấn đề liên quan đến sự phát triển của xã hội. Muốn có một nền giáo dục toàn diện thì phải có những nhà giáo dục với những phẩm chất và năng lực cần thiết. Do vậy vấn đề năng lực giảng dạy nói riêng và nhân cách của người giáo viên nói chung trở thành vấn đề quan trọng của mọi thời đại, mọi quốc gia, được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Các tác giả nghiên cứu vấn đề này dưới nhiều hình thức, nhiều khía cạnh đa dạng, phong phú, song tựu chung lại là nghiên cứu vấn đề ở hai mặt lý luận và thực tiễn. 1.1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề lý luận về nhân cách người thầy giáo Từ khi con người xuất hiện trên trái đất, do nhu cầu truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử mà giáo dục xuất hiện. Từ đó vấn đề về phẩm chất, năng lực của người thầy giáo cũng được con người đặc biệt quan tâm. Những tư tưởng đề cập tới phẩm chất và năng lực của người thầy giáo cụ thể là: Socrate là một tấm gương sáng về nghề dạy học, từng nói về chức năng nhiệm vụ của người thầy : “ Nhà giáo phải giúp phá vỡ lớp hiểu biết giả tạo nơi học trò, phải làm cho học trò của mình ý thức về sự giốt nát của họ, để cho chân lý có thể chói sáng trong tâm trí ho”. [23, tr.15] Để làm được như vậy, người thầy giáo theo Socrate phải có đức hạnh cao cả, đó là tình yêu chân lý và sự can đảm nói lên chân lý ấy. Khổng Tử – người đại diện cho nền giáo dục phong kiến Trung Hoa, khi đó vai trò của nhà giáo dục được đánh giá rất cao. Những cấp bậc quan trọng trong xã hội đó là: quân, sư, phụ (vua – thầy rồi mới đến cha). Do đó nhân cách của người thầy cũng được yêu cầu cao. Khổng Tử đã đề cập tới nhân cách của thầy giáo bằng một chữ “đức” – thầy giáo phải luôn trau dồi đạo đức để luôn là tấm gương sáng cho học trò noi theo . Muốn vậy thì thầy phải “dạy không biết mệt mỏi”để trò “học không biết chán” và tình cảm thầy trò như tình cha con [34, 63 ]. J.A Cômenxki đã đánh giá rất cao vai trò của giáo dục và của người thầy giáo. Ông coi nghề dạy học là nghề vinh quang nhất nhưng cũng đặt ra cho người thầy giáo những yêu cầu rất cao về lòng nhân ái: “Không thể trở thành một người thầy nếu không là một người cha”.[34, tr. 88 ] Cùng với Comenxki là John Locke – một nhà giáo dục tư sản nổi tiếng người Anh. Ông đã nêu lên khẩu hiệu : “Giáo viên cần phải dịu dàng, ôn hoà và tin tưởng nơi học sinh” . “ Cần phải giúp chúng, giơ tay cho chúng nắm để dẫn chúng đi một cách nhẹ nhàng, trong khi chờ đợi chúng đủ sức để đi một mình”[23, 45 ] J.J. Rousseu, nhà giáo dục người Pháp, xuất phát điểm cho công tác giáo dục của ông là “ giáo dục tự nhiên, tự do”. Từ kinh nghiệm bản thân, ông đã đúc kết một trong những phẩm chất quan trọng nhất giúp người giáo viên thành công trong công tác giáo dục, đó là kiên trì và bình tĩnh . Ở phương tây cũng đã ghi nhận một số tác phẩm của Xinét (Mi), Bukere (Anh), Tomadi (Italia), đặc biệt là các tác phẩm của Raisơ (Mĩ) đã phản ánh một số kết quả nghiên cứu đặc điểm nhân cách của giáo viên ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách của học sinh . Bên cạnh đó có một số tác phẩm viết dưới dạng kinh nghiệm trong giảng dạy như tác phẩm của Ghbert Highet trong cuốn “nghệ thuật giáo dục”[17]. Trong cuốn này ông đã nêu lên một số phẩm chất cần thiết của một giảng viên Đại học như: Hiểu biết cặn kẽ và yêu thích bộ môn của mình, phải biết yêu và chinh phục một tập thể trẻ tuổi, cần kiên nhẫn, quyết đoán, tử tế, chân thật, hoà đồng và thông cảm với học trò, hiểu rõ những cá nhân đặc biệt trong lớp , khoan dung và khôi hài … Tuy nhiên việc nghiên cứu một cách toàn diện về nhân cách người thầy giáo vẫn chưa được thể hiện trong tâm lí học phương tây. Ở Liên xô, sau cách mạng tháng mười năm 1917, V.I Lênin, Đảng cộng sản Liên Xô và chính quyền Xô Viết đánh giá rất cao vai trò của đội ngũ giáo viên trong sự nghiệp giáo dục. Lần đầu tiên một phẩm chất được đặt lên hàng đầu đối với người giáo viên, đó là thế giới quan khoa học. Tâm lí học Xô Viết ngay từ đầu đã quan tâm đến việc xây dựng ngành Tâm lí học sư phạm, nghiên cứu các quy luật tâm lí của việc dạy học và giáo dục , nhưng Tâm lí học người thầy giáo thì mãi đến sau những năm năm mươi của thế kỷ hai mươi mới bắt đầu được hình thành. Là một bộ phận của Tâm lí học sư phạm, Tâm lí học người thầy giáo xem những phẩm chất, năng lực của người thầy giáo là đối tượng nghiên cứu của mình. Nhiều tác phẩm được ra đời bởi một số nhà Sư phạm Xô Viết nổi tiếng đã đặt một nền móng lí luận vững chắc, mở đầu cho việc nghiên cứu Tâm lí học người thầy giáo xã hội chủ nghĩa. V.A Xukhômlinxki trong sự nghiệp giáo dục của mình luôn tâm niệm: “ Muốn trở thành người thầy giáo chân chính của trẻ thì phải hiến dâng trái tim cho trẻ” [42, tr. 8] , và ông đã làm như thế với những học sinh bé nhỏ của mình – những học sinh tiểu học. A.S.Makarenko – nhà giáo dục suốt đời theo đuổi mục đích lớn: “ Con người chỉ có một chuyên môn, một chuyên môn độc nhất là trở nên cao quý, trở nên một người chân chính”. Đó là mục đích sống và cũng là mục đích giáo dục. Do vậy ông đã đề ra yêu cầu rất cao về phẩm chất, năng lực của người làm công tác giáo dục đó là: “Yêu nghề, yêu trẻ, sống say sưa, vui vẻ, phải mẫu mực trong mọi lời nói, ăn mặc, cử chỉ, có lý tưởng, hoài bão, ước mơ, sống lạc quan” [34, tr. 272 ]. Và điều quan trọng nhất là “ Lòng trung thực công bằng, làm việc hết mình vì lợi ích chung của toàn xã hội “ [34, tr.373 ] . Ph.N. Gônôbôlin là người có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu tâm lí người thầy giáo. Trong tác phẩm “Những phẩm chất tâm lí của người giáo viên” ông đã đưa ra những kết luận được đúc kết từ những công trình quan sát lâu năm về công tác sư phạm của người giáo viên và có thể đem lại thành công cho công tác của giáo viên. Trong tác phẩm này ông đòi hỏi người giáo viên phải có thế giới quan, tính tích cực xã hội , khả năng tự giáo dục, động cơ hoạt động giáo dục, thái độ đối với trẻ, tình cảm đạo đức và thẩm mỹ. V.A. Cruchetxki với cuốn sách “ Những cơ sở của Tâm lí học sư phạm” ông đã khái quát được những nét nhân cách cần thiết của người giáo viên xã hội chủ nghĩa. Về năng lực ông cho rằng người giáo viên cần phải có: Năng lực dạy học, năng lực khoa học, năng lực nhạn biết, năng lực ngôn ngữ, năng lực tổ chức , năng lực xây dựng uy tín, năng lực giao tiếp , năng lực tưởng tượng sư phạm và năng lực phân phối chú ý. A. V. Petrovski, một nhà tâm lí học sư phạm và lứa tuổi người Nga. Ông đề cao vai trò của người giáo viên và ông cho rằng để thành công trong công tác dạy học và giáo dục thì người giáo viên phải có những kỹ năng, kỹ xảo sư phạm như kỹ năng và kỹ xảo thông tin, kỹ năng và kỹ xảo động viên, kỹ năng và kỹ xảo phát triển, kỹ năng và kỹ xảo định hướng, bên cạnh đó cần có xu hướng sư phạm, năng lực sư phạm (năng lực dạy học, năng lực thiết kế, năng lực tri giác, năng lực truyền đạt, năng lực giao tiếp, năng lực tổ chức), thái độ đối xử khéo léo sư phạm, Đạo đức sư phạm … N. Đ Lêvitôp với cuốn Tâm lí học trẻ em và Tâm lí học sư phạm tập 3 cũng đề cập tới “nhân cách của người giáo viên Xô viết và sự hình thành uy tín của người giáo viên” . Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu của các tác giả Côvaliop, Cuzơmina … Ở Việt Nam từ bao đời nay nhân dân ta rất coi trọng người giáo viên, nhân dân kính mến yêu thương họ, học sinh cảm phục, biết ơn họ. Từ sau Cách mạng tháng tám, Hồ Chủ Tịch, các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta rất chú ý đến chất lượng của đội ngũ giáo viên. Coi giáo viên là những chiến sĩ cách mạng trên mặt trận văn hoá tư tưởng, những người có trách nhiệm lớn lao trong việc xây dựng nên nhân cách xã hội chủ nghĩa cho thế hệ trẻ. Để thực hiện trọng trách nặng nề đó, Bác Hồ không ngừng nhắc nhở thầy, cô giáo về đạo đức cách mạng: “ Trong giáo dục, không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài, phải có đức, có tài không có đức tham ô, hủ hoá có hại cho nước … ” [28, tr. 85 ] Để góp phần thực hiện đường lối của Đảng và nhà nước về công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, năm 1974, ban Tâm lí học thuộc viện khoa học giáo dục đã thành lập tổ Tâm lí học thầy giáo, với chức năng là nghiên cứu các phẩm chất nhân cách của người thầy giáo xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các tác giả Phạm Văn Đỗ, Bùi Thị Phúc, Bùi Trọng Thiềm đã nêu lên giả định về cấu trúc nhân cách của người thầy giáo trong công trình nghiên cứu của mình (1978). Theo các tác giả này cấu trúc nhân cách của người thầy giáo bao gồm hai thành phần lớn :Thành phần thứ nhất là các phẩm chất tư tưởng có thể gọi là đức gồm các yếu tố về thế giới quan, tư tưởng chính trị, lòng yêu trẻ, yêu nghề, các nét tính cách, ý chí, các nhu cầu, động cơ, lí tưởng nghề nghiệp. Thành phần thứ hai là các năng lực sư phạm ( có thể gọi là tài) gồm các yếu tố thuộc nhóm năng lực giảng dạy, năng lực giáo dục và năng lực
Tài liệu liên quan