Chi thường xuyên là quá trình phân phối, sử dụng nguồn lực Tài
chính của Nhà nước nhằm trang trải những nhu cầu của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị xã hội thuộc khu vực công, qua đó thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước ở các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và
đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin, thể dục thể thao, khoa học và công
nghệ môi trường và các hoạt động sự nghiệp khác. Nói tóm lại thì chi
thường xuyên của NSNN là quá trình phân phối, sử dụng vốn từ quỹ NSNN
để đáp ứng nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên
củaNhà nước về quản lý kinh tế, xã hội.
74 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2301 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát chi thường xuyên qua kho bạc nhà nước tỉnh Tiền Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ VÀ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG
XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò chi thường xuyên của NSNN
1.1.1 Khái niệm về chi thường xuyên
Chi thường xuyên là quá trình phân phối, sử dụng nguồn lực Tài
chính của Nhà nước nhằm trang trải những nhu cầu của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị xã hội thuộc khu vực công, qua đó thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước ở các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và
đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin, thể dục thể thao, khoa học và công
nghệ môi trường và các hoạt động sự nghiệp khác. Nói tóm lại thì chi
thường xuyên của NSNN là quá trình phân phối, sử dụng vốn từ quỹ NSNN
để đáp ứng nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên
của Nhà nước về quản lý kinh tế, xã hội.
1.1.2 Phân loại chi thường xuyên
- Căn cứ vào tính chất kinh tế
Chi thường xuyên bao gồm 4 nhóm mục cụ thể như sau:
+ Nhóm các khoản chi thanh toán cho cá nhân gồm: tiền lương; phụ
cấp lương; học bổng học sinh, sinh viên; tiền thưởng; phúc lợi tập thể; chi
về công tác người có công với cách mạng và xã hội; chi lương hưu và trợ
cấp bảo hiểm xã hội; các khoản thanh toán khác cho cá nhân.
+ Nhóm các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn gồm: thanh toán dịch vụ
công cộng; vật tư văn phòng; thông tin tuyên truyền liên lạc; hội nghị; công
tác phí; chi phí thuê mướn; chi sửa chữa thường xuyên; chi phí nghiệp vụ
chuyên môn của từng ngành.
+ Nhóm các khoản chi mua sắm, sửa chữa lớn tài sản cố định và xây
dựng nhỏ gồm: sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ chuyên môn và các
công trình cơ sở hạ tầng; chi mua tài sản vô hình; mua sắm tài sản dùng cho
công tác chuyên môn.
+ Nhóm các khoản chi thường xuyên khác gồm: các nhóm mục của
2mục lục Ngân sách nhà nước không nằm trong 3 nhóm mục trên và các mục
từ mục 147 đến mục 150 thuộc khoản chi thường xuyên trong mục lục Ngân
sách nhà nước.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi cụ thể sau:
+ Chi cho sự nghiệp kinh tế: Hoạt động của các đơn vị SN kinh tế
nhằm phục vụ cho yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, quản lý KT-XH
và tạo điều kiện cho các ngành kinh tế hoạt động và phát triển một cách
thuận lợi. Mục đích hoạt động của đơn vị SN kinh tế không phải là kinh
doanh lấy lãi, do vậy NSNN cần dành một khoản chi đáp ứng hoạt động của
các đơn vị này. Chi SN kinh tế bao gồm:
• Chi SN nông nghiệp, SN thuỷ lợi, SN ngư nghiệp, SN lâm
nghiệp, sự nghiệp giao thông, SN kiến thiết thị chính và SN kinh tế công
cộng khác.
• Chi điều tra cơ bản, đo đạc địa giới hành chính các cấp.
• Chi về bản đồ, đo đạc cắm mốc biên giới, đo đạc lập bản đồ
và lưu trữ hồ sơ địa chính.
• Chi định canh, định cư và kinh tế mới.
+ Chi sự nghiệp văn hoá-xã hội: Chi SN giáo dục, đào tạo; Chi SN y
tế; SN VHTT; SN TDTT; SN phát thanh, truyền hình; SN khoa học, công
nghệ và môi trường; SN xã hội; SN văn xã khác.
+ Chi quản lý hành chính: Là các khoản chi cho hoạt động của các cơ
quan HCNN thuộc bộ máy chính quyền các cấp từ trung ương đến địa
phương.
+ Chi về hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Chi về hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội: Bao gồm: mặt
trận tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh, Hội CCB Việt Nam, Hội LHPN, Hội Nông dân Việt Nam.
Đối với nước ta các tổ chức trên là các tổ chức thuộc hệ thống chính trị
3của nước ta, do vậy theo quy định của luật NSNN, NSNN có trách nhiệm bố
trí chi NS đảm bảo hoạt động của các tổ chức này.
+ Chi trợ giá theo chính sách của Nhà nước.
+ Chi các chương trình quốc gia.
+ Chi trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội.
+ Chi tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp theo quy định
của pháp luật.
+ Chi trả lãi tiền do Nhà nước vay.
+ Chi viện trợ cho các Chính phủ và các tổ chức nước ngoài.
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
1.1.3 Đặc điểm của chi thường xuyên
- Nguồn lực Tài chính trang trải cho các khoản chi thường xuyên được phân
bổ tương đối đều giữa các quý trong năm, giữa các tháng trong quý và giữa
các năm trong kỳ kế hoạch.
- Việc sử dụng kinh phí thường xuyên được thực hiện thông qua hai hình
thức cấp phát thanh toán và cấp tạm ứng. Cũng như các khoản chi khác của
Ngân sách nhà nước, việc sử dụng kinh phí thường xuyên phải đúng mục
đích, tiết kiệm và có hiệu quả.
- Chi thường xuyên chủ yếu chi cho con người sự việc nên nó không làm
tăng thêm tài sản hữu hình của Quốc gia.
- Hiệu quả của chi thường xuyên không thể đánh giá, xác định cụ thể như
chi cho đầu tư phát triển. Hiệu quả của nó không đơn thuần về mặt kinh tế
mà được thể hiện qua sự ổn định chính trị – xã hội từ đó thúc đẩy sự phát
triển bền vững của đất nước.
Với đặc điểm trên cho thấy vai trò chi thường xuyên có ảnh hưởng rất
quan trọng đến đời sống KT-XH của một quốc gia.
1.1.4 Vai trò của chi thường xuyên
- Chi thường xuyên có vai trò quan trọng trong nhiệm vụ chi của NSNN.
Thông qua chi thường xuyên đã giúp cho bộ máy nhà nước duy trì hoạt
động bình thường để thực hiện tốt chức năng QLNN; đảm bảo an ninh, an
4toàn xã hội, đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
- Thực hiện tốt nhiệm vụ chi thường xuyên còn có ý nghĩa rất lớn trong việc
phân phối và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính của đất nước, tạo điều
kiện giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Chi thường xuyên
hiệu quả và tiết kiệm sẽ tăng tích lũy vốn NSNN để chi cho ĐTPT, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển, nâng cao niềm tin của nhân dân vào vai trò quản lý
điều hành của nhà nước.
1.1.5. Các nguyên tắc quản lý chi thường xuyên của NSNN.
- Nguyên tắc quản lý theo dự toán: Dự toán là khâu mở đầu của một chu
trình NSNN. Những khoản chi thường xuyên một khi đã được ghi vào dự
toán chi và đã được cơ quan quyền lực Nhà nước xét duyệt được coi là chỉ
tiêu pháp lệnh. Xét trên giác độ quản lý, số chi thường xuyên đã được ghi
trong dự toán thể hiện sự cam kết của cơ quan chức năng quản lý tài chính
nhà nước với các đơn vị thụ hưởng NSNN. Từ đó nảy sinh nguyên tắc quản
lý chi thường xuyên theo dự toán.
- Nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả: Tiết kiệm, hiệu quả là một trong những
nguyên tắc quan trọng hàng đầu của quản lý kinh tế, tài chính, bởi lẽ nguồn
lực thì luôn có giới hạn nhưng nhu cầu thì không có giới hạn. Do vậy, trong
quá trình phân bổ và sử dụng nguồn lực khan hiếm đó luôn phải tính toán
sao cho với chi phí ít nhất nhưng phải đạt hiệu quả một cách tốt nhất.
Mặt khác, do đặc thù của hoạt động NSNN diễn ra trên phạm vi rộng,
đa dạng và phức tạp. Nhu cầu chi từ NSNN luôn gia tăng với tốc độ nhanh
trong khi khả năng huy động nguồn thu có hạn. Nên càng phải tôn trọng
nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả trong quản lý chi thường xuyên của NSNN.
- Nguyên tắc chi trực tiếp qua KBNN: Một trong những chức năng quan
trọng của KBNN là quản lý quỹ NSNN. Vì vậy, KBNN vừa có quyền, vừa
có trách nhiệm phải kiểm soát chặt chẽ mọi khoản chi NSNN, đặc biệt là
các khoản chi thường xuyên. Để tăng cường vai trò của KBNN trong kiểm
soát chi thường xuyên của NSNN, hiện nay ở nước ta và đang thực hiện
việc chi trực tiếp qua KBNN như là một nguyên tắc trong quản lý khoản chi
5này.
Để thực hiện được nguyên tắc chi trực tiếp qua KBNN cần phải giải
quyết tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tất cả các khoản chi NSNN phải được kiểm tra, kiểm soát
trước, trong và sau quá trình cấp phát, thanh toán. Các khoản chi phải có
trong dự toán NSNN được duyệt, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp
có thẩm quyền qui định và phải được thủ trưởng ĐVSD kinh phí NSNN
hoặc người được uỷ quyền quyết định chi.
Thứ hai, tất cả các cơ quan, đơn vị, các chủ dự án… sử dụng kinh phí
NSNN( gọi chung là ĐVSD ngân sách nhà nước ) phải mở tài khoản tại Kho
bạc nhà nước; chịu sự kiểm tra, kiểm soát của CQTC, KBNN trong quá
trình lập dự toán, phân bổ dự toán, cấp phát, thanh toán, hạch toán kế toán
và quyết toán NSNN.
Thứ ba, BTC, Sở tài chính - vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc TW,
Phòng tài chính kế hoạch quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi
chung là CQTC) có trách nhiệm thẩm định dự toán và thông báo dự toán đã
được thẩm tra cho các đơn vị thụ hưởng kinh phí NS; kiểm tra việc sử dụng
kinh phí, xét duyệt quyết toán chi của các đơn vị và tổng hợp quyết toán chi
NSNN.
Thứ tư, KBNN có trách nhiệm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ, điều kiện
chi và thực hiện cấp phát, thanh toán kịp thời các khoản chi NSNN theo
đúng qui định; tham gia với các CQTC, cơ quan QLNN có thẩm quyền
trong việc kiểm tra tình hình sử dụng NSNN và xác định số thực chi NSNN.
KBNN có quyền tạm đình chỉ, từ chối thanh toán, chi trả và thông báo
cho các ĐVSD NSNN biết đồng gửi cho CQTC đồng cấp giải quyết trong
các trường hợp sau:
- Chi không đúng mục đích, đối tượng theo dự toán được duyệt.
- Chi không đúng chế độ, định mức chi tiêu tài chính nhà nước.
- Không đủ các điều kiện về chi theo qui định.
Thứ năm, mọi khoản chi NSNN được hạch toán bằng đồng Việt Nam
6theo từng niên độ NS, từng cấp NS và MLNSNN. Các khoản chi NSNN
bằng ngoại tệ, hiện vật, ngày công lao động được qui đổi và hạch toán bằng
đồng Việt Nam theo tỷ giá ngoại tệ, giá hiện vật, ngày công lao động do cơ
quan có thẩm quyền qui định.
Thứ sáu, trong quá trình quản lý, cấp phát, quyết toán chi NSNN, các
khoản chi sai phải thu hồi giảm chi. Căn cứ vào quyết định của CQTC hoặc
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, KBNN thực hiện việc thu
hồi giảm chi NSNN.
1.2 Hoạt động của KBNN trong hệ thống Tài chính của Việt Nam
1.2.1 Sự ra đời và phát triển của hệ thống KBNN Việt Nam
Cùng với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (năm 1945),
Nha ngân khố trực thuộc BTC đã được thành lập theo sắc lệnh số 45/TTg
của TTCP với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là in tiền, phát hành tiền của
Chính phủ, quản lý quỹ NSNN, quản lý một số tài sản quý của Nhà nước
bằng hiện vật như vàng, kim khí quý, đá quý…
Từ năm 1951, nhiệm vụ của Nha Ngân khố được chuyển giao sang hệ
thống Ngân hàng cùng với việc thành lập NH Quốc gia Việt Nam (sau đổi
tên là NHNN). Trong giai đoạn này, trên nền tảng của cơ chế kế hoạch hoá
tập trung, NHNN vừa thực hiện chức năng: QLNN và kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ – tín dụng, thực hiện vai trò là 3 trung tâm tiền tệ – tín dụng –
thanh toán trong nền kinh tế quốc dân, vừa thực hiện nhiệm vụ của Nha
Ngân khố bao gồm các công việc như: chấp hành quỹ NSNN, tập trung các
nguồn thu của NSNN, tổ chức cấp phát chi trả các khoản chi NSNN theo
lệnh của CQTC, làm nhiệm vụ kế toán thu, chi quỹ NSNN, in tiền, phát
hành tiền, quản lý dự trữ Nhà nước về vàng bạc kim khí đá quý…
Những năm cuối của thập kỷ 90, công cuộc đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế đất nước diễn ra một cách sâu sắc và toàn diện. Để phù hợp với cơ
chế quản lý kinh tế mới, cơ chế quản lý TCTT đã có sự thay đổi, đặc biệt là
các vấn đề có liên quan đến chức năng nhiệm vụ của Tài chính và Ngân
hàng. Hệ thống NH được tổ chức lại thành hệ thống NH hai cấp: NHNN
7thực hiện chức năng QLNN trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng, các NHTM thực
hiện kinh doanh tiền tệ – tín dụng. Nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN, các quỹ
TCNN được chuyển giao từ NHNN cho BTC để hệ thống Tài chính thực
hiện chức năng quản lý và điều hành NSNN tài chính quốc gia.
Quan điểm thành lập hệ thống Kho Bạc trực thuộc BTC để quản lý quỹ
NSNN và tài sản quốc gia đã được HĐBT (nay là Chính phủ) quyết định tại
Nghị định số 155/HĐBT ngày 15/10/1998 về chức năng nhiệm và tổ chức
bộ máy của BTC. Thực hiện Nghị định của HĐBT, từ năm 1988 – 1989,
BTC đã có đề án thành lập hệ thống KBNN và tiến hành thử nghiệm tại hai
tỉnh Kiên Giang (từ tháng 10/1988) và An Giang (từ tháng 7/1989); kết quả
cho thấy: việc quản lý quỹ NSNN tại địa bàn hai tỉnh trên thực hiện tốt, tập
trung nhanh các nguồn thu, đáp ứng đầy đủ kịp thời các nhu cầu chi NSNN,
trợ giúp đắc lực cho CQTC và chính quyền địa phương trong việc quản lý
và điều hành NSNN, mặt khác đã tạo điều kiện cho các NHTM trên địa bàn
sắp xếp tổ chức lại hoạt động theo hướng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ –
tín dụng có hiệu quả. Trước tình hình đó, ngày 1/ 4/1990 Chính phủ ban
hành quyết định 07/HĐBT thành lập hệ thống KBNN trực thuộc Bộ tài
chính.
1.2.2 Chức năng của Kho Bạc Nhà Nước
KBNN là tổ chức trực thuộc BTC, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
quy định tại quyết định số 235/2003/QĐ-TTg ngày 13/11/2003 của TTCP
và các văn bản hướng dẫn của BTC và KBNN. KBNN có 2 chức năng cơ
bản là:
- Quản lý nhà nước về quỹ NSNN, các quỹ TCNN và các quỹ khác của nhà
nước được giao quản lý.
- Huy động vốn cho NSNN, cho ĐTPT qua hình thức phát hành công trái và
trái phiếu.
Thực hiện và cụ thể hoá các chức năng nêu trên, Chính phủ, BTC quy
định nhiệm vụ của KBNN bao gồm những nhiệm vụ chuyên môn theo chức
năng và nhiệm vụ quản lý nội ngành.
81.2.3 Nhiệm vụ của Kho Bạc Nhà Nước
- Quản lý quỹ NSNN và các quỹ tài chính khác của Nhà nước.
+ Quản lý quỹ NSNN: KBNN có trách nhiệm quản lý toàn bộ các
khoản tiền của nhà nước, kể cả tiền vay, tiền trên tài khoản của NSNN các
cấp. Cụ thể:
• KBNN có nhiệm vụ tập trung, phản ánh đầy đủ, kịp thời các khoản
thu NSNN; tổ chức thực hiện việc thu nộp vào quỹ NSNN do các tổ chức và
cá nhân nộp tại hệ thống KBNN; thực hiện hạch toán số thu NSNN cho các
cấp NS theo quy định. Luật Ngân sách, Điều 47 quy định “ toàn bộ các
khoản thu NSNN phải nộp trực tiếp vào KBNN”.
• KBNN tổ chức thực hiện chi NSNN. KBNN quản lý, kiểm soát,
thanh toán, chi trả các khoản chi từ NSNN bao gồm cả chi thường xuyên và
chi đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước.
• Để thực hiện nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN, KBNN có quyền trích
từ tài khoản tiền gửi của tổ chức, cá nhân để nộp NSNN hoặc áp dụng các
biện pháp hành chính khác để thu cho NSNN. KBNN có quyền từ chối
thanh toán, chi trả các khoản chi không đúng, không đủ các điều kiện theo
quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
+ Quản lý các quỹ tài chính khác của nhà nước:
• KBNN các cấp được giao nhiệm vụ quản lý, kiểm soát các quỹ dự
trữ tài chính của TW, của các cấp chính quyền địa phương, quỹ ngoại tệ tập
trung của nhà nước và một số quỹ TCNN khác.
• Quản lý tiền, tài sản, các loại chứng chỉ có giá của nhà nước và
của các đơn vị, cá nhân gửi tại KBNN. Thực hiện quản lý các tài sản quốc
gia quý hiếm theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
• Quản lý, kiểm soát và thực hiện nhập, xuất các khoản tạm thu, tạm
giữ, tịch thu, ký cược, ký quỹ, thế chấp theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
- Tổ chức hạch toán kế toán NSNN và các quỹ tài chính khác của nhà nước
Để thực hiện nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN và các quỹ TCNN, KBNN
9các cấp tổ chức thực hiện công tác hạch toán kế toán NSNN, kế toán các
quỹ và tài sản do nhà nước giao. Trên cơ sở các số liệu kế toán, định kỳ báo
cáo việc thực hiện dự toán thu, chi NS cho CQTC cùng cấp và cơ quan nhà
nước có liên quy định.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán và điều hành vốn: KBNN thực hiện các
nghiệp vụ thanh toán và điều hành vốn như một ngân hàng.
- Tổ chức huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển
+ Huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư bảo đảm bù đắp thiếu
hụt ngân sách và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
+ Nhu cầu về vốn cho ĐTPT từ NHNN ngày càng lớn đặc biệt là phát
triển cơ sở hạ tầng KT-XH. Thông qua phát hành công trái, trái phiếu huy
động nguồn vốn trong dân cư để đầu tư cho các chương trình, dự án lớn của
nhà nước.
1.2.4. Vai trò của KBNN trong quá trình kiểm soát chi thường xuyên
Ngân sách nhà nước
Đứng trên giác độ trong thực tiễn KBNN là người xuất quỹ NS thì chi
NSNN là việc sử dụng quỹ NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của bộ
máy nhà nước, phát triển KT-XH, cho an ninh quốc phòng, cho phúc lợi
công cộng, cho an sinh theo các nhiệm vụ mà NSNN phải trang trải bằng
các hình thức tổ chức chi thích hợp nhằm qua đó đảm bảo cho các khoản chi
NS đáp ứng yêu cầu đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả. Do đó, trong
quá trình thực hiện kiểm soát chi NSNN, nếu phát hiện được các vi phạm
chính sách, chế độ quản lý tài chính, KBNN có quyền từ chối thanh toán.
KBNN chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, hợp lệ của việc xuất tiền. Vì vậy,
KBNN phải kiểm tra việc sử dụng kinh phí NSNN cấp cho các đơn vị, tổ
chức kinh tế, bảo đảm đúng mục đích, đúng chế độ định mức chi tiêu của
nhà nước. Công việc kiểm tra đó được KBNN thực hiện thông qua việc xem
xét các hồ sơ, tài liệu chi thường xuyên NSNN trên các phương diện như dự
toán NS được duyệt thẩm quyền chuẩn chi, chế độ, tiêu chuẩn định mức chi
của nhà nước. Trong quá trình kiểm tra, nếu phát hiện thấy cơ quan, đơn vị,
10
tổ chức kinh tế sử dụng kinh phí được NSNN cấp không đúng mục đích,
không có hiệu quả hoặc không đúng chế độ, chính sách của nhà nước thì
KBNN từ chối cấp phát, thanh toán. Như vậy, trong quá trình quản lý và
điều hành NSNN, KBNN không thụ động thực hiện theo các lệnh của
CQTC, hoặc đơn vị thụ hưởng NS một cách đơn thuần. Ngược lại, KBNN
hoạt động có tính độc lập tương đối, theo cơ chế tác động trở lại đối với các
cơ quan, đơn vị này. Thông qua đó, KBNN có thể bảo đảm tính chặt chẽ
trong quá trình sử dụng công quỹ nhà nước, đặc biệt trong khâu mua sắm,
xây dựng, sữa chữa … Chính vì vậy, không những đã hạn chế được tình
trạng lãng phí, thất thoát, tiêu cực mà còn bảo đảm cho việc sử dụng kinh
phí NSNN đúng mục đích, hợp pháp, tiết kiệm, có hiệu quả. Đồng thời tham
gia kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán góp phần
chống tiêu cực, đề cao kỷ cương, kỷ luật quản lý tài chính, tiền tệ.
Thông qua việc cấp phát, thanh toán các khoản chi của NSNN,
KBNN còn tiến hành tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình chi NSNN qua
KBNN theo từng địa bàn, từng cấp NS và từng khoản chi chủ yếu. Từ đó rút
ra những nhận xét, đánh giá về những kết quả đã đạt được, những hạn chế,
tồn tại và nguyên nhân cùng với các cơ quan hữu quan phối hợp nghiên cứu
nhằm cải tiến và hoàn thiện cơ chế cấp phát, thanh toán và kiểm soát chi
NSNN qua Kho Bạc Nhà Nước.
1.3. Một số vấn đề về quản lý NS theo kết quả đầu ra:
° Đầu ra là hàng loạt hàng hóa công do các cơ quan, đơn vị nhà nước tạo ra
và cung cấp cho xã hội.
° Kết quả là các tác động, ảnh hưởng đến cộng đồng (chủ ý hoặc không chủ
ý) từ quá trình tạo ra một đầu ra hoặc nhóm các đầu ra. Kết quả kế hoạch
(dự kiến) là mục tiêu của chính phủ cố gắng đạt được thông qua mua các
đầu ra.
° Đầu vào là những nguồn lực được các cơ quan, đơn vị công sử dụng để
thực hiện các hoạt động và từ đó tạo nên kết quả đầu ra.
° Hiệu quả: Liên quan đến đầu ra và nguồn lực đầu vào cần thiết. Chỉ số
11
hiệu quả được tính toán thông qua các chỉ tiêu: chi phí trên một đơn vị đầu
ra; chi phí trung bình của xã hội để sản xuất một đơn vị đầu ra…
° Hiệu lực: Cung cấp thông tin trong phạm vi đầu ra đạt được so với các
mục tiêu chính sách. Để có được thông tin về chỉ số hiệu lực, cần tập trung
vào làm rõ vấn đề đánh giá quá trình tạo ra các đầu ra của đơn vị hiện tại có
đóng góp đến kết quả dự kiến hay không?
Những đặc điểm cơ bản của phương thức quản lý NSĐR:
° Ngân sách lập theo tính chất “mở”- công khai, minh bạch;
° Các nguồn lực tài chính của Nhà nước được tổng hợp toàn bộ vào trong dự
toán ngân sách;
° Ngân sách được lập theo thời gian trung hạn;
° Ngân sách được lập dựa vào nhu cầu, hướng tới khách hàng và mục tiêu
phát triển kinh tế – xã hội;
° Ngân sách hợp nhất chặt chẽ giữa chi thường xuyên và chi đầu tư;
° Ngân sách lập dựa trên cơ sở nguồn lực không thay đổi trong trung hạn và
do vậy, đòi hỏi phải có cam kết chặt chẽ;
° Phân bổ ngân sách dựa theo thứ tự ưu tiên chiến lược;
° Phi tập trung hóa trong quản lý ngân sách, người quản lý được trao quyền
chủ động trong chi tiêu.
1.3.1. Sự khác nhau giữa quản lý