Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, ngoài ra ngân hàng thương mại còn cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên. Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến trong nền kinh tế.
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) chỉ rõ: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”.
56 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng các công cụ phái sinh tại ngân hàng ngoại thương – chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: CÔNG CỤ PHÁI SINH VÀ NGHIỆP VỤ KINH DOANH NGOẠI TỆ BẰNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1 Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, ngoài ra ngân hàng thương mại còn cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên. Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến trong nền kinh tế.
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) chỉ rõ: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”.
1.1.2 Các nghiệp vụ hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM.
1.1.2.1 Nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn (Nghiệp vụ nợ).
Là nghiệp vụ hình thành trên các nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Các nguồn vốn của NHTM bao gồm:
a. Vốn điều lệ và các quỹ:
- Vốn điều lệ: là nguồn vốn ban đầu khi ngân hàng mới bắt đầu đi vào hoạt động và được ghi vào bản điều lệ của ngân hàng. Vốn điều lệ phải đạt mức tối thiểu theo quy định của pháp luật (ở các nước và ở Việt Nam đều có quy định mức vốn pháp định cho mỗi loại hình ngân hàng). Vốn điều lệ được Ngân sách nhà nước cấp phát nếu là ngân hàng công, do các cổ đông đóng góp theo cổ phần nếu là ngân hàng cổ phần. Vốn điều lệ có thể được thay đổi theo xu hướng tăng lên nhờ được cấp bổ sung vốn điều lệ theo quy định của luật pháp mỗi nước. Vốn điều lệ được sử dụng trước hết để xây dựng, mua sắm tài sản cố định, các phương tiện làm việc và quản lý, tức là tạo cơ sở vật chất ban đầu cho hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra các ngân hàng thương mại còn được phép sử dụng vốn điều lệ để hùn vốn, liên doanh, cấp vốn cho các công ty trực thuộc và thực hiện các hoạt động kinh doanh khác.
- Các quỹ của ngân hàng: được hình thành khi ngân hàng đã đi vào hoạt động, bao gồm các quỹ trích từ lãi ròng hàng năm của ngân hàng như: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, các quỹ dự phòng (tài chính, trợ cấp mất việc làm), quỹ đầu tư phát triển, quỹ khác (khen thưởng, phúc lợi)... Ngoài ra, còn có các quỹ được hình thành bằng cách trích và tính vào chi phí hoạt động của ngân hàng như: quỹ khấu hao cơ bản, sửa chữa tài sản, dự phòng để xử lý rủi ro...
b. Vốn huy động:
Đây là nguồn vốn chủ yếu sử dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Nguồn vốn huy động gồm có: tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng; tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức; tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn của dân cư; nguồn vốn huy động qua phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi...
c. Nguồn vốn đi vay:
Trong trường hợp vốn tự có và vốn huy động không đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh, ngân hàng thương mại có thể vay vốn của các chủ thể sau:
- Vay của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức được tái cấp vốn như chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá; cầm cố, tái cầm cố các thương phiếu; vay lại theo hợp đồng tín dụng...
- Vay của các ngân hàng thương mại khác qua thị trường liên ngân hàng, hợp đồng mua lại...
- Vay của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế...
d. Nguồn vốn khác:
Vốn tiếp nhận từ ngân sách Nhà nước để thực hiện các chương trình, dự án theo kế hoạch tập trung của Nhà nước; vốn tiếp nhận để cho vay ủy thác, vốn chiếm dụng của khách hàng trong quá trình thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt...
1.1.2.2 Nghiệp vụ sử dụng vốn (Nghiệp vụ có).
Với nguồn vốn có được, ngân hàng sử dụng cho các hoạt động sau:
a. Thiết lập dự trữ:
Các ngân hàng thương mại không sử dụng toàn bộ nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, mà phải dành một phần dự trữ thích hợp nhằm đáp ứng những yêu cầu sau: duy trì dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; thực hiện lệnh rút tiền thanh toán chuyển khoản của khách hàng; chi trả các khoản tiền gửi đến hạn, chi trả lãi; đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý trong ngày của khách hàng; thực hiện các khoản chi tiêu hàng ngày tại ngân hàng...
Dự trữ của ngân hàng có thể tồn tại dưới hình thức tiền mặt, tiền gửi tại ngân hàng khác và các chứng khoán có tính thanh khoản cao.
b. Cấp tín dụng:
Bao gồm các nghiệp vụ cho vay (ngắn, trung và dài hạn); chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá; cho thuê tài chính; bảo lãnh, bao thanh toán...
c. Đầu tư tài chính:
Ngân hàng thương mại sử dụng các nguồn vốn ổn định để thực hiện các hình thức đầu tư nhằm kiếm lời và chia sẻ rủi ro với nghiệp vụ tín dụng. Các hình thức đầu tư tài chính bao gồm: góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của các công ty, xí nghiệp, các tổ chức tín dụng khác và mua chứng khoán, các giấy tờ có giá trị để hưởng lợi tức, chênh lệch giá.
d. Sử dụng vốn cho các mục đích khác:
Mua sắm thiết bị, dụng cụ phục vụ cho hoạt động kinh doanh, xây dựng trụ sở ngân hàng, hệ thống kho bãi và các chi phí khác.
1.1.2.3 Nghiệp vụ trung gian (Dịch vụ ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác).
Đây là các dịch vụ mà khi ngân hàng cung cấp cho khách hàng sẽ nhận được các khoản hoa hồng và lệ phí như: dịch vụ ngân quỹ; dịch vụ ủy thác; tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng; nhận quản lý tài sản quý giá theo yêu cầu khách hàng; kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ; mua bán hộ chứng khoán, phát hành hộ cổ phiếu, trái phiếu cho các công ty, xí nghiệp; tư vấn về tài chính, đầu tư...
Các nghiệp vụ trên của ngân hàng thương mại không thể tách rời, độc lập nhau mà chúng có mối quan hệ hỗ tương với nhau trong quá trình kinh doanh của ngân hàng.
1.2 Công cụ phái sinh.
1.2.1 Khái niệm.
Công cụ phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất... Trên thị trường ngoại hối có 5 nghiệp vụ cơ bản được giao dịch đó là: giao ngay (spot), kỳ hạn (forward), hoán đổi (swap), giao sau (future) và quyền chọn (option). Trong đó giao ngay được xem là nghiệp vụ cơ bản, các nghiệp vụ còn lại được xem là phái sinh.
1.2.2 Lịch sử hình thành thị trường công cụ phái sinh.
Từ sự khởi đầu đơn giản với future và forward...
Thị trường future có thể được xem như đã xuất hiện từ thời trung cổ. Lúc đầu đối tượng của các future trên thị trường là các mặt hàng đơn giản như lúa mì hay cà phê. Các nhà đầu tư mua và bán các hợp đồng future với mục đích nhằm giảm bớt sự lo ngại xảy ra những biến cố khiến giá bị đẩy lên cao hay xuống thấp trong những tháng sau đó. Đến những năm thập niên 80 của thế kỷ 20, các hợp đồng future bắt đầu nở rộ và phổ biến trong các giao dịch thương mại.
Hầu hết các thị trường forward phát triển sớm là các thị trường ngoại hối, còn được gọi là thị trường liên ngân hàng (interbank market). Thị trường này phát triển nhanh chóng nhờ vào sự thả nổi của các đồng tiền mạnh vào đầu thập niên 1970. Thị trường liên ngân hàng bao gồm hàng trăm ngân hàng khắp thế giới, họ là những người thay mặt cho chính họ hoặc cho khách hàng thực hiện các cam kết giao sau và kỳ hạn với nhau.
... đến những công cụ hiệu quả như swap và option.
Swap cũng là một công cụ phái sinh dựa trên sự trao đổi và thực hiện hợp đồng. Các giao dịch hoán đổi là động lực chính của những tăng trưởng trên hợp đồng kỳ hạn.
Giao dịch đầu tiên của thị trường option bắt đầu ở châu Âu và Mỹ từ đầu thế kỷ 18. Những năm đầu thị trường hoạt động thất bại vì nạn tham nhũng. Một trong những người liên quan là nhà môi giới có quyền chọn về một loại cổ phiếu nhất định đã ăn hối lộ để giới thiệu cổ phiếu cho khách hàng của họ. Vào đầu những năm 1900, một nhóm công ty đã thành lập hiệp hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn. Mục đích của hiệp hội này là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và những người bán lại với nhau. Tháng 4 năm 1973 Chicago Board of Trade lập thị trường mới, Chicago Board Options Exchange, đặc biệt dành cho trao đổi option về cổ phiếu. Từ đó thị trường option trở nên phổ biến với nhà đầu tư. Đến thập niên 80 của thế kỷ 20, thị trường option đối với ngoại tệ, chỉ số chứng khoán và hợp đồng future đã phát triển ở Mỹ. Thị trường chứng khoán Philadelphia là nơi giao dịch option ngoại tệ đầu tiên.
1.2.3 Các chủ thể tham gia trên thị trường.
1.2.3.1 Nhà bảo hộ giá (Hedger).
Chúng ta xem xét tình huống sau: Công ty Import Co.Ltd có một hợp đồng trị giá 1 triệu USD, thời hạn thanh toán là 6 tháng, tỷ giá giao ngay (USD/VND) ở thời điểm hiện tại: 15.990, tỷ giá giao ngay (USD/VND) khi hợp đồng đến hạn: chưa biết. Công ty Import Co.Ltd đứng trước rủi ro nếu USD lên giá so với VND ở thời điểm thanh toán. Sự lên giá này của USD có thể gây ra cho Import Co.Ltd tổn thất giao dịch bằng trị giá hợp đồng nhân cho chênh lệch tỷ giá giữa hai thời điểm thanh toán và ký kết. Để tránh rủi ro ngoại hối, công ty liên hệ với ngân hàng mua quyền chọn mua có những nội dung sau:
- Trị giá quyền chọn (K): 1 triệu USD.
- Tỷ giá thực hiện (E): 16.010.
- Phí mua quyền chọn (P) tính trên mỗi đồng ngoại tệ: 20 đồng. Tổng chi phí mua quyền chọn bằng 1 triệu x 20 đồng = 20 triệu đồng.
- Kiểu quyền chọn: kiểu Mỹ.
- Thời hạn hiệu lực của quyền chọn (T): 6 tháng.
Ở thời điểm này, Import Co.Ltd đã bỏ ra tổng chi phí 20 triệu đồng để mua công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Mặc dù, lúc này thời điểm đáo hạn chưa xảy ra nhưng công ty biết trước được khi đáo hạn có hai khả năng xảy ra và các giao dịch khi quyền chọn đáo hạn như sau:
- Nếu tỷ giá mua giao ngay Sb > E = 16.010 thì doanh nghiệp sẽ thực hiện quyền chọn mua. Khi ấy giá trị của khoản phải trả quy ra nội tệ là V = 1 triệu USD x 16.010 = 16.010 triệu VND, bất chấp tỷ giá giao ngay trên thị trường là bao nhiêu. Cần lưu ý rằng doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 20 triệu VND để mua quyền chọn nên giá trị quy ra nội tệ của khoản phải trả tăng thêm nhưng vẫn được cố định ở mức 16.010 + 20 = 16.030 triệu VND. Nhờ vậy, rủi ro ngoại hối được kiểm soát.
- Nếu tỷ giá giao ngay Sb < E = 16.010 thì doanh nghiệp không thực hiện quyền chọn mua, mà mua ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Khi ấy giá trị khoản phải trả là V(Sb) = 1 triệu USD x Sb = Sb triệu VND. Cần lưu ý rằng doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 20 triệu VND để mua quyền chọn nên giá trị quy ra nội tệ của khoản phải trả tăng thêm lên đến (Sb + 20) triệu VND. Giá trị này chưa được cố định nhưng bị chặn trên tối đa ở mức 16.030 triệu VND, vì Sb < 16.010. Do đó, rủi ro ngoại hối cũng được kiểm soát.
Kết quả là dù tỷ giá giao ngay khi hợp đồng nhập khẩu đến hạn là bao nhiêu đi nữa thì giá trị phải thanh toán của hợp đồng nhập khẩu quy ra VND vẫn nằm ở mức tối đa là 16.030 triệu VND.
1.2.3.2 Nhà đầu cơ (Speculator).
Chúng ta có thể sử dụng các công cụ phái sinh cho mục đích đầu cơ. Để làm rõ việc sử dụng công cụ phái sinh vào mục đích đầu cơ như thế nào chúng ta xem xét tình huống sau: Đang ở thời điểm hiện tại tỷ giá EUR/USD = 1,2028, ông A dự báo rằng trong tương lai EUR sẽ lên giá so với USD và tỷ giá có thể lên đến EUR/USD = 1,2928.
Ông A mua EUR và chờ giá lên sẽ bán ra lấy lời trong tương lai. Dĩ nhiên là việc mua EUR để đầu cơ này là một việc làm rủi ro vì nếu EUR không lên giá đúng như dự đoán của mình thì ông A sẽ lỗ. Nhưng là người có kinh nghiệm và bản lĩnh ông A tin chắc vào sự dự đoán của mình và kỳ vọng kiếm lời mỗi EUR được (1,2928 – 1,2028) = 0,09 USD. Chẳng hạn để kiếm được 11.250 USD ông A phải mua 125.000 EUR. Để mua được 125.000 EUR ngay thời điểm hiện tại ông A phải bỏ ra 125.000 x 1,2028 = 150.350 USD. Với số tiền USD phải bỏ ra khá lớn khiến ông A có thể ngậm ngùi nhìn cơ hội kiếm 11.250 USD trôi qua trong tiếc nuối vì không có tiền mua 125.000 EUR. Nhưng ông A có thể nắm bắt cơ hội đầu cơ bằng cách mua hợp đồng giao sau trị giá 125.000 EUR thay vì mua giao ngay 125.000 EUR. Vì mua hợp đồng giao sau trị giá 125.000 EUR chứ không phải mua 125.000 EUR nên ông A không cần bỏ ra ngay 150.350 USD mà chỉ cần bỏ ra 1.755 USD ký quỹ theo yêu cầu của Sở giao dịch. Như vậy, với số tiền bỏ ra ít hơn: 1.755 USD so với 150.350 USD ông A vẫn mua được cơ hội kiếm lời nếu như tỷ giá biến động đúng như dự đoán của ông ta. Với hợp đồng giao sau này, hàng ngày nếu tỷ giá EUR/USD lên đúng như dự đoán của ông A thì tài khoản của ông A sẽ được ghi có một số tiền bằng chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay ngày hôm nay so với ngày hôm trước nhân với trị giá hợp đồng. Ngược lại, nếu tỷ giá xuống, tức là ngược với dự báo của ông A, thì tài khoản của ông ta sẽ bị ghi nợ một số tiền bằng chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay ngày hôm trước so với ngày hôm nay nhân với trị giá hợp đồng. Ngoài ra, nếu việc ghi nợ nhiều khiến cho số dư tài khoản ký quỹ của ông A giảm xuống đến mức tối thiểu do Sở giao dịch quy định, ông A phải bỏ thêm tiền vào cho đủ mức quy định mới được tiếp tục giao dịch.
1.2.3.3 Nhà kinh doanh chênh lệch tỷ giá (Arbitrage).
Kinh doanh chênh lệch tỷ giá liên quan đến việc mua ngoại tệ ở một thị trường và bán lại ở một thị trường khác. Việc mua bán như vậy có khuynh hướng làm quân bình tỷ giá giữa các thị trường khác nhau.
Giả sử có các tỷ giá sau đây trên thị trường quốc tế:
GBP/USD = 1,5809 – 1,5839 ở New York
USD/EUR = 0,9419 – 0,9487 ở Frankfurt
GBP/EUR = 1,4621 – 1,4671 ở London
Để khai thác cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá, nhà kinh doanh sẽ thực hiện các giao dịch sau đây:
Từ New York nhà kinh doanh bán ra 1 triệu USD ở Frankfurt được:
1.000.000 x 0,9419 = 941.900 EUR.
Dùng số EUR này để mua GBP ở London được:
941.900 / 1,4671 = 642.014,86 GBP.
Bán số GBP vừa mua được ở New York được:
642.014,86 x 1,5809 = 1.014.961,29 USD.
Lợi nhuận do kinh doanh chênh lệch tỷ giá: 1.014.961,29 – 1.000.000 = 14.961,29 USD. Tuy lợi nhuận không lớn nhưng kiếm được trong thời gian rất ngắn và hầu như không có rủi ro nên rất hấp dẫn.
Lợi nhuận hấp dẫn này thu hút nhiều người vào cuộc. Khi có nhiều người nhảy vào cuộc, do có nhiều người dùng USD để mua EUR ở Frankfurt nên EUR sẽ lên giá so với USD ở Frankfurt và do có nhiều người bán EUR lấy GBP ở London nên EUR giảm giá so với GBP ở London, cuối cùng ở New York do có nhiều người bán GBP để lấy USD nên GBP sẽ giảm giá so với USD ở New York. Cơ hội kinh doanh chênh lệch giá cũng chấm dứt nhường chỗ cho sự quân bình tỷ giá giữa ba khu vực thị trường.
Trên thực tế còn có chi phí giao dịch và rào cản giao dịch giữa các thị trường. Chính điều này khiến cho giao dịch kinh doanh chênh lệch tỷ giá không phải dễ dàng thực hiện. Kết quả, cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá ít khi xuất hiện và nếu có cũng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
1.2.4 Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của NHTM.
1.2.4.1 Nghiệp vụ hối đoái giao ngay (spot).
Giao dịch hối đoái giao ngay là giao dịch mua, bán một số lượng ngoại tệ giữa hai bên theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày cam kết mua bán.
Tùy theo tập quán kinh doanh và điều kiện thị trường từng nước, có thể niêm yết tỷ giá theo nhiều cách khác nhau. Nhưng nhìn chung có hai cách niêm yết giá trên thị trường giao ngay dành cho hai đối tượng khách hàng khác nhau. Cách yết giá theo kiểu Mỹ và kiểu Âu dành cho khách hàng là ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng. Cách yết giá trực tiếp và gián tiếp dành cho khách hàng thông thường, tức khách hàng không phải là ngân hàng.
Yết giá theo kiểu Mỹ (American term) là cách niêm yết tỷ giá bằng số USD trên đơn vị ngoại tệ. Yết giá theo kiểu châu Âu (European term) là cách niêm yết tỷ giá bằng số ngoại tệ trên 1 đơn vị USD.
Yết giá trực tiếp (direct quotation) là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn vị ngoại tệ thông qua một số lượng nội tệ nhất định. Yết giá gián tiếp (indirect quotation) là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn vị nội tệ thông qua một số lượng ngoại tệ nhất định. Theo thông lệ các đồng tiền thường được yết giá gián tiếp gồm có bảng Anh, dollar Úc và dollar New Zealand, các đồng tiền thường được yết giá trực tiếp gồm có yên Nhật, france Thụy Sĩ, dollar Singapore, và nhiều đồng tiền khác trong đó có đồng Việt Nam. Riêng dollar Mỹ và Euro vừa yết giá gián tiếp vừa yết giá trực tiếp.
Khi nói đến tỷ giá bao giờ cũng liên quan đến một cặp đồng tiền: đồng tiền yết giá và đồng tiền định giá. Đồng tiền yết giá là đồng tiền biểu thị giá trị của nó qua đồng tiền khác. Đồng tiền định giá là đồng tiền dùng để xác định giá trị đồng tiền khác.
Trên thị trường hối đoái giao ngay thường diễn ra quan hệ mua bán ngoại tệ giữa ngân hàng và khách hàng. Các ngân hàng thường không thu phí giao dịch hay hoa hồng mà sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua để trang trải chi phí giao dịch và thu lợi nhuận thỏa đáng. Chênh lệch giá mua và giá bán của một ngoại tệ cao hay thấp tùy thuộc vào phạm vi giao dịch hẹp hay rộng và mức độ biến động giá trị của ngoại tệ đó trên thị trường. Để có thể so sánh với các loại chi phí giao dịch khác, chênh lệch tỷ giá bán và tỷ giá mua thường được xác định theo tỷ lệ phần trăm qua công thức sau:
Tỷ giá bán - Tỷ giá mua
Chênh lệch (%) = __________________________________ x 100
Tỷ giá bán
Ví dụ chúng ta có tỷ giá GBP/USD = 1,4229 – 1,4246. Chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán mà khách hàng phải chịu khi mua bán ngoại tệ với ngân hàng:
1,4246 - 1,4229
Chênh lệch (%) = ______________________ x 100 = 0,12%
1,4246
Các ngoại tệ có thị trường giao dịch tương đối rộng như USD, GBP, EUR, JPY thường có chênh lệch giá mua bán ở mức 0,1% đến 0,5% trong khi các ngoại tệ mà thị trường giao dịch hẹp hơn có mức chênh lệch giá cao hơn nhiều. Lý do là ngân hàng sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua vào các mục đích như phòng ngừa rủi ro biến động tỷ giá ngoại tệ mua vào hoặc bán ra, bù đắp chi phí giao dịch và cuối cùng là kiếm lợi nhuận thỏa đáng. Do vậy với các ngoại tệ có phạm vi giao dịch hẹp, hoặc vào những thời kỳ tỷ giá của ngoại tệ nào đó biến động mạnh thì ngân hàng duy trì chênh lệch giữa giá bán và giá mua lớn hơn so với các ngoại tệ khác hoặc so với thời kỳ tỷ giá ổn định.
Giao dịch hối đoái giao ngay được ngân hàng sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ giao ngay cho khách hàng. Tuy nhiên, nhược điểm của giao dịch hối đoái giao ngay là không đáp ứng được nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ của những khách hàng nào cần mua hoặc cần bán ngoại tệ nhưng việc chuyển giao ngoại tệ chưa thực hiện ngay ở hiện tại mà sẽ được thực hiện trong tương lai. Để đáp ứng nhu cầu này của khách hàng ngân hàng phải phát triển thêm một loại giao dịch khác, đó là giao dịch hối đoái có kỳ hạn.
1.2.4.2 Nghiệp vụ hối đoái có kỳ hạn (forward).
Giao dịch hối đoái có kỳ hạn là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua, bán với nhau một số lượng ngoại tệ theo một mức giá xác định và việc thanh toán sẽ được thực hiện trong tương lai.
Tỷ giá có kỳ hạn thường được yết theo hai cách: yết giá theo kiểu outright và yết giá theo kiểu swap. Tỷ giá có kỳ hạn theo kiểu outright đơn giản là giá cả của một đồng tiền này tính bằng một số đơn vị đồng tiền kia. Nó cũng được niêm yết tương tự như tỷ giá giao ngay chỉ khác một điều là tỷ giá được hai bên xác định và thỏa thuận ở hiện tại nhưng sẽ được áp dụng trong tương lai. Tỷ giá theo kiểu swap chỉ yết phần chênh lệch theo số điểm căn bản (basic points) giữa tỷ giá có kỳ hạn và tỷ giá giao ngay tương ứng. Yết giá theo kiểu swap thường được sử dụng trên thị trường liên ngân hàng, tức là trong giao dịch giữa một ngân hàng này với một ngân hàng khác.
Tỷ giá có kỳ hạn (forward rate) là tỷ giá áp dụng trong tương lai nhưng được xác định ở hiện tại. Tỷ giá