Luận văn Thực trạng và một số giải pháp xoá đói giảm nghèo ở huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng

Sau 20 năm đổi mới cơ chế quản lý, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - an ninh - quốc phòng. Nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh chóng, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng của quá trình phát triển kinh tế xã hội không đồng đều đến tất cả các vùng, các nhóm dân cư. Vì vậy, một bộ phận dân cư do các nguyên nhân khác nhau chưa bắt kịp với sự thay đổi, gặp những khó khăn trong đời sống, sản xuất và trở thành người nghèo. Xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và môi trường, để thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, Đảng và Nhà nước ta cần làm là đưa nước ta thoát khỏi nước nghèo và kém phát triển. Vì vậy vấn đề xóa đói giảm nghèo (XĐGN) là một chủ trương lớn, là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam là một nước sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, có gần 80% dân số sống ở nông thôn và trên 70% sống bằng nghề nông nghiệp, tỉ lệ đói nghèo còn cao nhưng phân bố không đều giữa các vùng, miền; nhưng bất kì nơi nào từ thành phố đến nông thôn, đồng bằng đến miền núi, vùng sâu vùng xa vẫn tồn tại các hộ nghèo, người nghèo, xã nghèo.

docx77 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1974 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp xoá đói giảm nghèo ở huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA KINH TẾ LAO ĐỘNG & DÂN SỐ ----------(((----------  LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Đề tài: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở HUYỆN VĨNH BẢO - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Giáo viên hướng dẫn : TS. Vũ Hoàng Ngân Sinh viên thực hiện : Hoàng Thị Xuân Thuỷ Lớp : Kinh tế lao động Khoá : 44 Hà Nội -2006 LỜI MỞ ĐẦU -------- Lý do chọn đề tài Sau 20 năm đổi mới cơ chế quản lý, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - an ninh - quốc phòng. Nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh chóng, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng của quá trình phát triển kinh tế xã hội không đồng đều đến tất cả các vùng, các nhóm dân cư. Vì vậy, một bộ phận dân cư do các nguyên nhân khác nhau chưa bắt kịp với sự thay đổi, gặp những khó khăn trong đời sống, sản xuất và trở thành người nghèo. Xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và môi trường, để thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, Đảng và Nhà nước ta cần làm là đưa nước ta thoát khỏi nước nghèo và kém phát triển. Vì vậy vấn đề xóa đói giảm nghèo (XĐGN) là một chủ trương lớn, là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam là một nước sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, có gần 80% dân số sống ở nông thôn và trên 70% sống bằng nghề nông nghiệp, tỉ lệ đói nghèo còn cao nhưng phân bố không đều giữa các vùng, miền; nhưng bất kì nơi nào từ thành phố đến nông thôn, đồng bằng đến miền núi, vùng sâu vùng xa vẫn tồn tại các hộ nghèo, người nghèo, xã nghèo. Hải Phòng là một thành phố thuộc Đồng bằng Sông Hồng của nước ta, một thành phố nông nghiệp với những điều kiện thuận lợi như cảng, biển, … tuy nhiên do mặt trái của cơ chế thị trường và sự phát triển không đồng bộ nên có sự phân hóa giàu, nghèo rõ rệt đặc biệt giữa thành thị và nông thôn. Vĩnh Bảo là một huyện của thành phố Hải Phòng, tỉ lệ hộ đói nghèo trên địa bàn còn khá cao chiếm trên 16% tổng số hộ trên toàn huyện. Để bắt kịp với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, Vĩnh Bảo đang phấn đấu làm tốt công tác kinh tế - xã hội để xây dựng phát triển quê hương. Xuất phát từ những yêu cầu và tình hình thực tế đói nghèo của huyện Vĩnh Bảo và trong thời gian thực tập tại Phòng Nội vụ – Lao động Thương binh và Xã hội – Cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo huyện, em chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài “Thực trạng và một số giải pháp xóa đói giảm nghèo ở huyện Vĩnh Bảo – thành phố Hải Phòng”. Đây là lĩnh vực đã được nghiên cứu nhiều song em vẫn mong muốn qua chuyên đề này hiểu rõ hơn về thực trạng đói nghèo và công tác xoá đói giảm nghèo. Kính mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô trong khoa Kinh tế Lao động và Dân số, cô giáo Vũ Hoàng Ngân và các cán bộ phòng Nội vụ Lao động - Thương binh và xã hội huyện Vĩnh Bảo. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài là hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về XĐGN, phân tích đánh giá thực trạng đói nghèo và XĐGN ở huyện Vĩnh Bảo để từ đó rút ra những mặt đã đạt được, những tồn tại hạn chế và những vấn đề đặt ra cần giải quyết. Trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm, phương hướng, mục tiêu và các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện XĐGN của huyện Vĩnh Bảo trong giai đoạn 2006 – 2010. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu là công tác xóa đói giảm nghèo của huyện Vĩnh Bảo – thành phố Hải Phòng. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các hộ gia đình nghèo của các xã, thị trấn thuộc huyện Vĩnh Bảo trong thời gian từ năm 1995 – 2004. 4. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, em sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu kết hợp với các phương pháp phân tích tổng hợp số liệu thống kê, so sánh xử lý biểu đồ, bảng biểu. 5. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lí luận cơ bản về xóa đói giảm nghèo Chương 2: Thực trạng đói nghèo và xóa đói giảm nghèo ở huyện Vĩnh Bảo – thành phố Hải Phòng Chương 3: Phương hướng và những giải pháp cơ bản để xóa đói giảm nghèo ở huyện Vĩnh Bảo – thành phố Hải Phòng CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO ------------------- 1.1. NHỮNG QUAN NIỆM CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO 1.1.1. Quan niệm chung - Khái niệm về đói nghèo Đói nghèo đã đang là một vấn đề nóng bỏng, nhức nhối có tính toàn cầu. Ngày nay, khi loài người đang bước vào thế kỷ 21, thế kỷ của công nghiệp hóa – hiện đại hóa, sự giàu có của nhiều tập đoàn, nhiều cá nhân tăng lên đồng thời cũng có nhiều quốc gia, nhiều vùng, nhiều dân tộc, nhiều gia đình rơi vào cảnh đói nghèo, khốn quẫn. Trên thế giới hiện nay có nhiều quan niệm về đói nghèo. Đói nghèo có thể được xem xét dựa trên khía cạnh về kinh tế, văn hóa, xã hội. chính trị… Có thể theo nghĩa hẹp chỉ gói gọn trong vấn đề thu nhập, chi tiêu, dinh dưỡng, giáo dục… hay theo nghĩa rộng hơn là sự phát triển toàn diện về mọi mặt của con người. Các hội nghị bàn về giảm đói nghèo trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc tháng 9- 1993 đã đưa ra định nghĩa đói nghèo như sau: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á: "Nghèo là tình trạng thiếu tài sản cơ bản và cơ hội mà mỗi con người có quyền được hưởng, mọi người cần được tiếp cận với giáo dục cơ sở và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản". Ngoài ra Ngân hàng Phát triển Châu Á còn đưa ra hai khái niệm nghèo cụ thể hơn: - Nghèo tuyệt đối là việc không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu, chỉ để duy trì khả năng tối thiểu sự sống cơ thể con người. - Nghèo tương đối là tình trạng không có khả năng đạt tới mức độ mức sống tối thiểu tại một thời điểm nào đó. Nhu cầu cơ bản của con người gồm 8 yếu tố chính phân thành 2 loại: + Nhu cầu thiết yếu ăn, mặc, ở. + Nhu cầu sinh hoạt hàng ngày: văn hoá, giáo dục, y tế, đi lại, giao tiếp. Khái niệm về đói nghèo nêu trên cũng đã nói nên rằng, sẽ không có một chuẩn nghèo chung cho tất cả các quốc gia và các khu vực, vì nó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia và phong tục tập quán của từng vùng, đó là sự thay đổi theo không gian. - Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo của thế giới Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá đói nghèo trên thế giới, chủ yếu là sử dụng chỉ tiêu thu nhập quốc dân đầu người (GDP/người) . Nhưng chỉ dựa vào chỉ tiêu này thì chưa đủ điều kiện đánh giá toàn diện được đói nghèo. Gần đây, để đánh gía đói nghèo của một số quốc gia, UNDP đã đưa ra chỉ số nghèo đói tổng hợp HPI ( Human Poverty Index) với 4 chỉ tiêu chính là: - Tỷ lệ thất học. - Tỷ lệ những người chết dưới 40 tuổi. - Tỷ lệ người không được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản (nước sạch, chăm sóc y tế, dinh dưỡng). - GDP bình quân tính theo đầu người (tính theo phương pháp PPP). - HPI như là một công cụ để tham khảo đánh giá tình trạng nghèo đói của một quốc gia. - Chuẩn mực xác định đói nghèo của thế giới. Chuẩn nghèo là một đại lượng thay đổi theo thời gian chứ không phải là đại lượng bất biến. Tháng 9/1995, tại Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen (Đan Mạch), vấn đề về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và xã hội đã đưa ra chuẩn đói nghèo: Những ai sống dưới mức 01 USD (tính theo sức mua tương đương) một ngày, được coi là nghèo khổ và kêu gọi các quốc gia hãy tấn công vào đói nghèo để giảm bớt số người nghèo trên thế giới. Cùng thời gian này, Ngân hàng thế giới (WB) cũng đưa ra 3 định hướng cơ bản cho giảm nghèo là tạo cơ hội cho người nghèo tăng thu nhập, tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội, giảm tính dễ bị tổn thương cho người nghèo. Nhằm giúp các quốc gia xây dựng chiến lược giảm nghèo toàn diện (CPRSP) đã tiến hành một loạt các ghiên cứu đánh giá về vấn đề đói nghèo được các tổ chức quốc tế và các quốc gia thực hiện. Để thuận lợi cho việc so sánh quốc tế, người ta đưa ra hai mức chuẩn nghèo là 01 USD/ ngày/người và 02 USD/ ngày/người. Theo đó, nếu lấy mức 01USD/1ngày/1 người thì vào thời điểm năm 1999 cả thế giới có khoảng 1,2 tỉ người nghèo và nếu lấy mức 02 USD/1ngày/1 người thì thế giới có khoảng 2,8 tỉ người nghèo trên tổng dân số thế giới (khoảng 6 tỉ người). Ngoài ra, WB và các tổ chức quốc tế cũng đưa ra khuyến nghị về chuẩn nghèo cho các quốc gia như sau: - Đối với các nước chậm phát triển: 0,5 USD/ ngày/ người. - Đối với các nước đang phát triển: 01 USD/ ngày / người. - Đối với các nước Châu Mỹ và nước đang phát triển ở mức khá: 02 USD/ngày/người. - Đối với các nước Châu Âu: 4USD/ ngày/người. - Đối với các nước công nghiệp: 14/ ngày/người. Chuẩn nghèo khuyến nghị nêu trên là căn cứ vào thu nhập và mức sống cụ thể của từng khu vực, từng vùng; vì nếu thấp hơn mức đó con người không thể bảo đảm được mức sống tối thiểu và không tồn tại được. 1.1.2. Quan niệm đói nghèo của Việt Nam - Khái niệm về đói nghèo Trên thế giới hiện nay có nhiều quan niệm về đói nghèo, ở mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi nhóm dân cư lại có những quan niệm khác nhau về đói nghèo. Việt Nam nói chung vẫn là một nước đang phát triển, thu nhập bình quân đầu người nhìn chung còn thấp. Chính vì vậy, qua nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu, các nhà quản lý ở các bộ, các ngành đã đi đến thống nhất cần có khái niệm riêng, chuẩn mực riêng cho nghèo và đói. Ở Việt Nam, bên cạnh khái niệm “nghèo” còn sử dụng khái niệm “đói” để phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu không thỏa mãn nhu cầu về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp, …“ “ Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống nhỏ hơn mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống”. Đó là một bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn một số tháng trong năm, phải vay nợ và thiếu khả năng chi trả. Ngoài khái niệm về hộ nghèo, hộ đói, Việt Nam còn sử dụng khái niệm vùng nghèo, xã nghèo là nơi tỷ lệ hộ nghèo cao hơn nhiều và mức sống dân cư thấp hơn nhiều so với mức sống chung của cả nước. Tình trạng đó phổ biến ở các vùng nghèo có điều kiện tự nhiên không thuận lợi (đất xấu, thiên tai thường xuyên), kết cấu hạ tầng kém phát triển. - Các chỉ tiêu đánh giá đói nghèo Chỉ tiêu chính là thu nhập bình quân đầu người/ tháng (hoặc năm), được đo bằng chỉ tiêu giá trị hiện vật quy đổi, thường lấy lương hay gạo để đánh giá. Ngoài ra còn có các chỉ tiêu phụ: Dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện học tập, chữa bệnh, đi lại… Để đánh giá một cách cụ thể về đói nghèo, Việt Nam còn đưa ra những chỉ tiêu sau: + Chỉ tiêu thu nhập quốc dân đầu người (GDP/người). + Tuổi thọ. + Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. + Tỷ lệ xoá mù chữ. + Tỷ lệ thất học. - Chuẩn mực xác định nghèo đói của Việt Nam. Chuẩn nghèo là thước đo mức sống của dân cư để phân biệt trong xã hội ai thuộc diện nghèo và ai không nghèo, để từ đó có chính sách trợ giúp cho những người nghèo tiếp cận với thành quả của sự phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo công bằng xã hội giữa các nhóm dân cư. Vì thực tiễn và lý luận đều chỉ ra rằng: “Hậu quả của thiên tai, lũ lụt và khủng hoảng kinh tế người nghèo là người chịu trước, còn thành quả của phát triển kinh tế - xã hội người nghèo lại là người hưởng sau”. Xuất phát từ khái niệm về nghèo đói của ESCAP và luận điểm cơ bản nêu trên, việc tiếp cận xác định chuẩn nghèo phải dựa vào mức sống của dân cư trong từng giai đoạn cụ thể xem họ sống như thế nào? với mức thu nhập, chi tiêu nào người dân chỉ đáp ứng được nhu cầu cơ bản?, dưới mức đó thì các quyền cơ bản về sinh tồn của họ không được đảm bảo, đòi hỏi Nhà nước và cộng đồng cần có biện pháp giúp đỡ. Ở Việt Nam, qua từng thời kì, từng giai đoạn cũng đưa ra những chuẩn nghèo khác nhau. Điều chỉnh chuẩn nghèo là một hoạt động có tiến trình trong công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Từ năm 1992 đến nay, chúng ta đã điều chỉnh chuẩn nghèo theo hướng tăng dần trong 4 giai đoạn 1992-1996, 1996-1997, 1998- 2000 và 2001-2005, theo công thức sau: Chuẩn nghèo = chi tiêu cho LTTP + chi tiêu cho phi LTTP Chúng tôi xin trình bày chuẩn nghèo đói của các giai đoạn để thấy sự thay đổi. - Chuẩn mực năm 1992 Mức nghèo đói  Chuẩn nghèo  Nông thôn  Thành thị   Nghèo tuyệt đối  Dưới 15 kg gạo/ người/ tháng  30-35%  8,1%   Nghèo tương đối  Dưới mức trung bình của địa phương  57,56%  42,87%   Thiếu đói kinh niên  Dưới 12kg gạo/ người / tháng  16,3-20,1%  6,45%   Đói gay gắt kinh niên  Dưới 8 kg gạo/ người/ tháng  5,7-7,96%  4,42%   - Chuẩn mực năm 1996 + Hộ đói là hộ có thu nhập dưới 13 kg gạo/ người/ tháng, tương ứng với 45.000đ. + Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người / tháng: +/ Dưới 15 kg gạo, tương ứng với 55.000đ đối với miền núi, nông thôn, hải đảo. +/ Dưới 20 kg gạo, tương ứng với 70.000đ đối với vùng nông thôn, đồng bằng và trung du. +/ Dưới 25 kg gạo, tương ứng với 90.000đ đối với thành thị. - Chuẩn nghèo năm 2000 Trước những thành tích của công cuộc giảm nghèo cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức sống, từ năm 2001 đã công bố chuẩn nghèo đói mới để áp dụng cho thời kì (2001- 2005), theo đó không tách riêng chuẩn đói nghèo (do đã căn bản xóa được hộ đói). Ngày 02/11/2000 Nhà nước đưa ra chuẩn mực nghèo mới được xác định ở mức đói khác nhau tùy từng vùng, cụ thể bình quân đầu người / tháng. + 80.000đ/ tháng ở vùng hải đảo, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. + 100.000đ/tháng ở vùng nông thôn đồng bằng. + 150.000đ/tháng ở thành thị. Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định nêu trên được xác định là hộ nghèo. - Chuẩn mực năm 2005 Trong giai đoạn 2005 - 2010 trước những thay đổi to lớn về mặt kinh tế, đời sống nhân dân đã từng bước được cải thiện, tại phiên họp thường kì vào ngày 27 và 28 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã trình bày báo cáo chuẩn nghèo giai đoạn (2006 – 2010). Chính phủ đã có Nghị quyết 06/ NQ–CP ngày 06/5/2005 nhất trí với phương án chuẩn nghèo mới. + Khu vực nông thôn: Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người từ 200.000đ/ tháng trở xuống là hộ nghèo. + Khu vực thành thị: Những hộ có thu nhập bình quân đầu người / tháng từ 260.000đ/ tháng trở xuống là hộ nghèo. Chuẩn nghèo nêu trên chỉ là chuẩn nghèo tối thiểu, các địa phương có thể dựa vào những thông số cụ thể đó kết hợp với điều kiện riêng của từng vùng để đưa ra chuẩn nghèo phù hợp. 1.2. ĐẶC ĐIỂM NGUYÊN NHÂN VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐÓI NGHÈO 1.2.1. Đặc điểm của người nghèo, hộ nghèo Trong thực tế cuộc sống, người nghèo họ thiếu cơ hội và khả năng lựa chọn cơ hội, ẩn mình trong giao tiếp, ngại tiếp xúc ở chỗ đông người, tự ti trong quan hệ, chính vì lẽ đó mà người nghèo khó thoát khỏi cảnh nghèo và càng ngày càng nghèo hơn. Họ không có cơ hội, điều kiện để phát triển ý kiến của mình. Những người nghèo, hộ nghèo họ có một số đặc điểm sau: - Tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm (thiếu ăn từ 3 - 6 tháng trong năm), đây là hình thức nghèo đói cơ bản nhất ở nước ta, nhất là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc. - Người nghèo chủ yếu là người nông dân với trình độ học vấn thấp và khả năng tiếp cận thông tin, kỹ năng chuyên môn bị hạn chế. - Nhà ở tạm, siêu vẹo, dột nát, không đảm bảo an toàn trong mùa mưa bão, bản thân gia đình không có khả năng tự làm mới hoặc sửa chữa. - Các hộ có nhiều con hoặc có ít lao động, con cái đến tuổi đi học không được đến trường, ốm đau không được khám chữa bệnh, nợ nần không có khả năng chi trả. - Thiếu đất hoặc không có đất canh tác; thiếu vốn, kiến thức sản xuất. 1.2.2. Nguyên nhân của đói nghèo * Nguyên nhân khách quan - Nguyên nhân khách quan về mặt tự nhiên + Đất đai: Đất canh tác ít, đất cằn cỗi ít màu mỡ, canh tác khó dẫn đến năng suất thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người dân. Đặc biệt đối với những người nông dân đất đai là tư liệu sản xuất chính, việc tích luỹ tái sản xuất mở rộng bị hạn chế. Vì vậy tỉ lệ nghèo đói ở nông thôn thường có xu hướng cao hơn thành thị. + Đặc điểm tự nhiên khắc nghiệt, không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, bão lũ, hạn hán, sâu bệnh… ảnh hưởng đến mùa màng giao thông liên lạc. + Vị trí địa lý ở vùng sâu, vùng xa hẻo lánh các cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư xây dựng hoặc có nhưng chất lượng kém và nhỏ bé. Do điều kiện địa lý họ bị bó buộc trong không gian mà ở đó mọi thứ đều kém phát triển, hạn chế tầm hiểu biết và nhận thức về tiến bộ xã hội, những thành tựu khoa học… một trong những yếu tố quyết định đến sự phát triển và tiến bộ xã hội. Nguyên nhân về mặt tự nhiên này cho thấy rõ nguyên nhân đói nghèo ở nông thôn cao hơn thành thị. Vì vậy lao động trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, sản xuất phi nông nghiệp không thuận lợi vì họ bị rơi vào thế cô lập với bên ngoài khó tiếp cận được với các nguồn lực phát triển như tín dụng, khoa học công nghệ… - Nguyên nhân khách quan về mặt xã hội + Môi trường kinh tế - xã hội Nguyên nhân về chiến tranh: Chiến tranh đi qua để lại những hậu quả nặng nề và dai dẳng: Người chết, môi trường bị hủy hoại, nền kinh tế bị suy kiệt. Đây chính là một trong những nguyên nhân của vấn đề đói nghèo và các vấn đề xã hội khác phát sinh. Nguyên nhân về xã hội: Cơ sở hạ tầng, trình độ dân trí, các cơ sở vật chất khác hết sức thấp kém, gây cản trở cho việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản suất ở nông thôn, các vùng dân tộc còn tồn tại nhiều phong tục, tập quán lạc hậu cả trong sản xuất và trong cuộc sống, kém hiểu biết gây cản trở, khó khăn cho công tác xóa đói giảm nghèo. Các vấn đề y tế, giáo dục phát triển yếu kém, trật tự an ninh không đảm bảo, các tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng dẫn đến bệnh tật, làm cho người nghèo rơi vào cảnh túng quấn, nợ nần. Nguyên nhân này cho thấy rõ hơn vì sao nghèo đói ở nông thôn, miền núi cao hơn rất nhiều so với thành thị và công tác xoá đói giảm nghèo tiến hành khó không có hiệu quả, không bền vững. * Nguyên nhân chủ quan: Thuộc về người lao động - Không có kinh nghiệm làm ăn, sản xuất Do trình độ học vấn thấp kém và không tự nâng cao trình độ của bản thân, việc làm chủ yếu trong khu vực nông nghiệp với tình trạng việc làm không ổn định; không biết làm ăn kinh doanh theo hướng sản xuất hàng hóa, không có năng lực hiểu biết về thị trường. Không năng động giải quyết việc làm, lười lao động. Do vậy mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và họ không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát nghèo. Để giúp những người này thoát nghèo cần có chính sách đào tạo, hướng dẫn làm ăn một cách trực tiếp cụ thể… như vậy họ mới tự đầu tư sản xuất giúp họ thoát nghèo. - Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn Người nghèo thường thiếu nguồn lực, họ rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất có xu hướng gia tăng, vì vậy ảnh hưởng đến khả năng đa dạng hóa sản xuất, họ vẫn sản xuất theo phương thức tự cung tự cấp nên năng suất thấp, giá trị không cao. Người nghèo không có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất như khuyến nông, phòng dịch bệnh, giống mới, thị trường…Người nghèo thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng. Sự hạn chế của nguồn vốn là một trong những yếu tố rất quan trọng đối với sản xuất, đưa công nghệ, thay đổi giống chất lượng cao. - Nguyên nhân về dân số Một trong những nguyên nhân của đói nghèo là do hộ nghèo thường đông con, sinh đẻ nhiều, sức khoẻ yếu, bố mẹ không đủ khả năng làm kinh tế vì vậy họ không có điều kiện cho con cái học tập, tiếp cận tiến bộ xã hội. Đông con vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của đói nghèo. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao vì họ không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với cá
Tài liệu liên quan