Luận văn Tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh thông qua việc tổ chức dạy học nhóm với các nội dung vận dụng thực tế - Ứng dụng vào chương tĩnh học vật rắn sách giáo khoa vật lí 10 nâng cao

Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì sự năng động và sáng tạo của con người là một trong những nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại, sự phát triển nhanh hay chậm của xã hội. Để nước ta có thể hoà nhập với sự phát triển chung của thế giới, sánh ngang với các cường quốc năm châuđòi hỏi ngành Giáo dục và đào tạo phải có những đổi mới mạnh mẽ, nhanh chóng để đào tạo ra những con người có đủ trình độ, năng lực sáng tạo, sự năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và khả năng hội nhập để làm chủ đất nước trong tương lai.

pdf109 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1948 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh thông qua việc tổ chức dạy học nhóm với các nội dung vận dụng thực tế - Ứng dụng vào chương tĩnh học vật rắn sách giáo khoa vật lí 10 nâng cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM Nguyễn Thị Mỹ Linh TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC TỔ CHỨC DẠY HỌC NHÓM VỚI CÁC NỘI DUNG VẬN DỤNG THỰC TẾ - ỨNG DỤNG VÀO CHƯƠNG TĨNH HỌC VẬT RẮN SGK VẬT LÍ 10 NÂNG CAO Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học Vật lí Mã số: 601410 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ PHƯỚC LỘC Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 Phần 1: MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì sự năng động và sáng tạo của con người là một trong những nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại, sự phát triển nhanh hay chậm của xã hội. Để nước ta có thể hoà nhập với sự phát triển chung của thế giới, sánh ngang với các cường quốc năm châu đòi hỏi ngành Giáo dục và đào tạo phải có những đổi mới mạnh mẽ, nhanh chóng để đào tạo ra những con người có đủ trình độ, năng lực sáng tạo, sự năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và khả năng hội nhập để làm chủ đất nước trong tương lai. Nghị quyết TW 2 khoá VIII đã chỉ rõ và cụ thể: “Đổi mới mạnh mẽ PP giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các PP tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS…”[39] Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 (ban kèm quyết định số 201/2001/QĐ – TTg ngày 28 tháng 12 năm 2001 của thủ tướng chính phủ) ở mục 5.2 ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại hoá PP giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động thầy giảng trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho người học PP tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống, có tư duy phân tích tổng hợp, phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động tích cực của HS, sinh viên trong quá trình học tập,…”[38] Ở nước ta, trong một thời gian dài nền giáo dục tồn tại tình trạng truyền thụ một chiều thầy đọc trò ghi. Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước đã thực hiện các chương trình đổi mới PPDH nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, do những yếu tố khách quan hay chủ quan nào đó mà hiệu quả đạt được chưa cao. “Khi dự xong lớp bồi dưỡng ai cũng gật gù khen PP mới là hay nhưng về trường không áp dụng được” hay “…tình trạng dạy giỏi trong các giờ thao giảng, còn để áp dụng đại trà thì không thể thực hiện được.”[15] Ở trường THPT hiện nay, việc đổi mới PP trong dạy học nói chung cũng như đổi mới PPDH VL nói riêng đã được thực hiện ở một số nơi nhưng vẫn rơi vào các tình trạng nêu trên. Con người trong xã hội ngày nay đòi hỏi “không phải là thâu tóm cho họ tất cả mọi tri thức mà phải coi trọng việc dạy PP, dạy cách đi tới kiến thức của loài người, trên cơ sở đó mà tiếp tục học tập suốt đời” [3]. Do đó, nhiệm vụ của một người GV là phải không ngừng suy nghĩ, tìm tòi, học hỏi các PP mới để có những tiết dạy nhằm giúp cho HS có thể chiếm lĩnh được các tri thức một cách tự giác, có khả năng suy nghĩ độc lập và có năng lực làm việc tập thể để hoà nhập với xã hội của nền tri thức mới. Thực hiện nhiệm vụ giáo dục của mình, nhiều GV cũng đã học hỏi và áp dụng các PP giảng dạy khác nhau, lựa chọn các PP cho phù hợp với từng nội dung và đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, Chúng tôi cũng đã quan sát thấy trong quá trình giảng dạy VL 10 THPT, nhiều GV vẫn còn sử dụng các PPDH truyền thống một cách tràn lan, không hợp lí. Chẳng hạn như khi khảo sát việc giảng dạy và kết quả học chương “Tĩnh học vật rắn” SGK VL 10 nâng cao, chúng tôi thấy có rất nhiều vấn đề. Đây là chương có nội dung gắn liền với thực tế, có nhiều ứng dụng rộng rãi, gần gũi trong cuộc sống hằng ngày. Đa số GV dạy chương này chủ yếu là để HS có thể biết được “nó là như thế”. Thực chất là sau khi học xong, các em không vận dụng được kiến thức để giải thích các hiện tượng, ví dụ như: cân bằng, mất cân bằng, phân tích và tổng hợp lực,… khi va chạm thực tế. Xuất phát từ vấn đề đó, chúng tôi chọn đề tài “Tích cực hoá hoạt động học tập của HS thông qua việc tổ chức dạy học nhóm với các nội dung vận dụng thực tế - Ứng dụng vào chương Tĩnh học vật rắn, SGK VL 10 nâng cao”. PPDH nhóm đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới, không chỉ trong nhà trường mà còn thường xuyên được sử dụng trong các ngành kinh tế kĩ thuật để huấn luyện kĩ năng hợp tác trong công việc cho nhân viên. Ở nước ta, xu hướng dạy học nhóm cũng đã dần xuất hiện ở các trường phổ thông và đại học, tuy chưa nhiều và chưa thường xuyên. Ngoài những tác dụng “thời sự” về phong cách làm việc, dạy học nhóm sẽ làm HS tích cực học tập hơn, sôi động hơn và đặc biệt là cơ hội rất tốt để HS có thể trao đổi nhiều về các nội dung thực tế và ứng dụng (như PGS.TS Lê Phước Lộc đã viết trong giáo trình Lí luận dạy học của mình). Thông qua một chương cụ thể ở lớp 10, chúng tôi muốn vận dụng thử nghiệm lại ý nghĩa này để tìm ra một cách làm hợp lí, một kết quả cụ thể và khả quan của một trong những PPDH tích cực đang phổ biến hiện nay. Như ở tên của đề tài, việc làm của chúng tôi có thể sẽ mang một ý nghĩa khái quát cho toàn bộ việc dạy học nói chung, trong dạy học VL nói riêng. Song do thời gian và một số hạn chế khác, chúng tôi chỉ nghiên cứu thử nghiệm cho chương “Tĩnh học vật rắn” lớp 10 – chương trình nâng cao. 2. Mục đích nghiên cứu Sử dụng PPDH tích cực với các nội dung vận dụng thực tế nhằm tích cực hoá các hoạt động học tập của HS, nâng cao hứng thú học tập từ đó nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học VL ở trường THPT hiện nay. 3. Giả thuyết khoa học Nếu các bài học VL được thiết kế theo hướng tăng cường các yếu tố thực tế và được tổ chức dưới hình thức trao đổi nhóm thì có thể phát huy tính tích cực học tập của HS. 4. Khách thể và đối tượng Khách thể nghiên cứu là hai thành tố: - Về con người: HS lớp 10 trường THPT. - Về nội dung: chương “Tĩnh học vật rắn” SGK VL 10 nâng cao. Đối tượng trực tiếp được quan sát là việc tổ chức dạy học của GV và hoạt động học nhóm của HS trong các giờ học trong và ngoài trường trong quá trình dạy và học chương “Tĩnh học vật rắn” lớp 10 nâng cao. 5. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu ở một số trường trên địa bàn Thành phố Vĩnh Long về việc tổ chức dạy học nhóm và sẽ thực nghiệm nội dung chương “Tĩnh học vật rắn” SGK VL 10 nâng cao ở 4 lớp HS của trường chúng tôi. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu, khai thác các tài liệu về tâm lí học, lí luận dạy học, tìm kiếm nguồn gốc của vấn đề dạy học nhóm (dạy học hợp tác), một số vấn đề về tâm sinh lí HS. Bên cạnh đó chúng tôi cũng nghiên cứu thêm các nghị quyết của Đảng, một số chủ trương, hướng dẫn công tác đổi mới PPDH của các cấp lãnh đạo ngành giáo dục. - Các tài liệu VL học xung quanh nội dung vật rắn và ứng dụng, nghiên cứu thực tế kĩ thuật và đời sống...cũng là một nhiệm vụ trực tiếp để làm phong phú thêm cho tài liệu thực nghiệm sư phạm. - Để có những kết quả mong muốn, sau khi chuẩn bị lí thuyết và nội dung thực nghiệm, chúng tôi chọn nơi thực nghiệm để tiến hành quan sát, điều tra và kiểm tra trước thực nghiệm – cơ sở để so sánh sự tiến bộ của HS lớp thực nghiệm – và sau đó tiến hành thực nghiệm sư phạm, lấy số liệu. Trong quá trình thực nghiệm dạy học, chúng tôi cũng tiến hành quan sát lớp học để có những bằng chứng thực tế hỗ trợ cho các kết luận sau thực nghiệm. 7. PP nghiên cứu Để thực hiện các nhiệm vụ trên, đề tài sử dụng các PP nghiên cứu chủ yếu sau: 7.1. PP nghiên cứu lý thuyết - Nghiên cứu cơ sở lí luận tâm lí học, giáo dục học và lí luận dạy học bộ môn theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của HS. - Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, chính sách của nhà nước cùng với các chỉ thị của Bộ giáo dục và Đào tạo về đổi mới PPDH hiện nay ở trường THPT. - Nghiên cứu mục tiêu, nội dung và nhiệm vụ của bộ môn VL ở trường THPT hiện nay. - Nghiên cứu vai trò của PP học nhóm trong việc tích cực hoá hoạt động học tập của HS. Những nghiên cứu này nhằm đúc kết một cách làm phù hợp với nhà trường Việt Nam, có cơ sở để vận dụng cho đề tài. 7.2. PP quan sát: Quan sát thái độ học tập của HS thể hiện như thế nào khi chưa thực hiện mục tiêu của đề tài, khi thực hiện đề tài và sau khi thực hiện đề tài. Để xác định tính khả quan của đề tài, có nhận được sự tích cực học tập của đa số HS hay không. 7.3. PP điều tra thăm dò - Thăm dò, trao đổi ý kiến với GV bộ môn, HS ở các trường THPT để nắm bắt thực trạng của việc học nhóm trong dạy học VL ở trường THPT hiện nay. - Xây dựng các phiếu điều tra để có cơ sở cho việc cần thiết phải đổi mới PPDH VL hiện nay ở trường THPT. 7.4. PP thực nghiệm sư phạm - Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở trường THPT có đối chứng để kiểm tra tính khả thi của luận văn, cụ thể là làm nổi bật vai trò của PP học nhóm trong việc tích cực hoá hoạt động học tập của HS trong giờ học môn VL. - Hai lần lấy số liệu quan trọng là: tiền thực nghiệm và cuối thực nghiệm. 7.5. PP thống kê toán học Sử dụng PP thống kê để trình bày kết quả thực nghiệm sư phạm và kiểm định giả thuyết thống kê về sự khác biệt trong kết quả học tập của hai nhóm đối chứng và thực nghiệm. 8. Một số khái niệm cơ bản trong đề tài - Hoạt động học bao gồm tất cả các hoạt động trong và ngoài giờ học của HS dưới sự chỉ đạo của người thầy nhằm các mục tiêu chiếm lĩnh tri thức khoa học, thông qua đó các em học được phương pháp làm việc và suy nghĩ của các nhà khoa học, tư duy của các em được phát triển. - Tính tích cực là một hiện tượng sư phạm được đặc trưng ở khát vọng ham hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. - Tích cực hoá là một tập hợp các hoạt động nhằm chuyển vị trí người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập. - Học hợp tác (học nhóm) là việc sử dụng những nhóm nhỏ, qua đó HS cùng nhau làm việc để mở rộng tối đa việc học của họ và của cả các thành viên khác trong nhóm. - PPDH là cách thức tiến hành hoạt động dạy học dưới sự chỉ đạo của GV, nhằm làm cho HS tự giác, tích cực, tự lực đạt tới mục đích dạy học. - Dạy học nêu vấn đề: PPDH nêu vấn đề là một kiểu PP chuyên biệt, theo một cấu trúc mà trong đó mọi hoạt động của thầy đều thể hiện sự chỉ đạo của GV thông qua trao đổi, gợi ý, hỗ trợ để HS có thể cùng thầy hoặc tự lực tìm kiếm lời giải của bài toán nhận thức. - Động cơ: Động cơ là sự giác ngộ cho một mục đích để hoạt động. Nó kích thích được nhận thức, qui định hành động để thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người. - Động lực: cái thúc đẩy làm cho biến đổi và phát triển. - Nhiệm vụ khám phá: Nhiệm vụ khám phá là một tình huống do GV đặt ra dưới dạng một câu hỏi hay một yêu cầu cho HS (cá nhân hoặc nhóm) có khả năng giải quyết nhanh bằng sự nỗ lực cao tại một thời điểm nào đó trong giờ học mà lời giải đúng sẽ kết nối với nội dung tiếp theo của bài giảng. - Thực tế: những gì đang tồn tại, đang diễn ra trong tự nhiên và xã hội hoặc phạm vi nào đó. 9. Cấu trúc tổng thể luận văn Luận văn có cấu trúc như sau: MỤC LỤC Phần 1: MỞ ĐẦU Phần 2: NHỮNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu Chương 2: Soạn thảo tiến trình dạy một số bài học trong chương “Tĩnh học vật rắn” theo hướng tổ chức nhóm Chương 3: Thực nghiệm sư phạm Phần 3: KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC Phần 2: NHỮNG NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Một số khái niệm cơ sở về tâm lí người học Nhà giáo dục học Nga K.Đ.Usinxki đã từng khuyên chúng ta: “Các bạn hãy nghiên cứu những qui luật của các hiện tượng tâm lí mà các bạn muốn điều khiển, các bạn hãy hành động căn cứ trên những qui luật này và những hoàn cảnh mà các bạn muốn vận dụng những qui luật này vào đó”[25] Thực vậy, đối tượng nghiên cứu của chúng ta là con người, đặc biệt ở lứa tuổi HS trung học phổ thông. Để thành công trong giáo dục, cần hiểu rõ hơn về các hiện tượng tâm lí của đối tượng này để từ đó chúng ta có cơ sở đề ra giải pháp giáo dục thích hợp. Theo kết quả nghiên cứu gần đây, trên thế giới cũng như ở nước ta cho thấy thanh thiếu niên ngày nay có sự phát triển tâm lí mạnh mẽ chủ yếu theo hai hướng: + Tích cực: Xã hội văn minh, khoa học công nghệ phát triển, nhất là sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự hiện đại hóa liên tục các phương tiện truyền thông, HS được mở rộng tầm nhìn, mở rộng giao lưu, tiếp cận sớm với nhiều cái mới, hiện đại nên sớm hiểu biết, linh hoạt, năng động, thực tế và tự tin hơn trong cuộc sống so với các thế hệ HS trước đây. Vì vậy, trong học tập, nhiều HS không thoả mãn với vai trò của người tiếp nhận thụ động, không chỉ chấp nhận các giải pháp có sẵn được đưa ra mà đòi hỏi phải có sự tìm tòi, sáng tạo ra các giải pháp khác cho riêng mình. Do đó, ở lứa tuổi này nảy sinh một yêu cầu về sự lĩnh hội các tri thức một cách độc lập, phát triển kĩ năng và sở trường của bản thân. + Tiêu cực: Bên cạnh ảnh hưởng tích cực từ bên ngoài, theo sự phát triển của xã hội hiện đại, của nền kinh tế thị trường, nhiều ảnh hưởng tiêu cực cũng đến với tầng lớp thanh thiếu niên nói chung, HS phổ thông nói riêng là không nhỏ. Nhiều HS đến lớp 12 vẫn chưa xác định cho mình một hướng đi cho tương lai. Trong học tập, không ít HS chưa xác định cho mình một động cơ học tập đúng đắn. Việc bỏ học để lao vào các trò chơi vô bổ là hiện tượng không hiếm trong nhà trường. Vì vậy, việc nghiên cứu tâm sinh lí HS trong nhà trường để tìm con đường hay nhất đưa HS vào quĩ đạo học tập nghiêm túc, có hiệu quả là nhiệm vụ của mọi người, trong đó vai trò chính vẫn là người GV. 1.1.1. Hoạt động học Hoạt động là luôn vận động. Vận động không chỉ nói đến các chuyển động về cơ bắp mà còn cả sự vận động về trí tuệ hay “sự động não”. Chẳng hạn: khi GV ra một bài tập HS không ngồi nhìn, trông chờ GV mà lấy giấy, viết ra suy nghĩ, phân tích được gì thì ghi lại vào giấy. Học là một quá trình mà đầu ra của nó được biểu hiện bằng sản phẩm là tri thức, kỹ năng, thái độ, hành vi ứng xử có thể quan sát được. Theo từ điển Tiếng việt: “Học tập là quá trình tiếp thu kiến thức và rèn luyện kỹ năng dưới sự dạy bảo, hướng dẫn của nhà giáo và hợp thành hoạt động dạy học trong lĩnh vực sư phạm” [Tr201, 7] Hoạt động học là một trong những khái niệm cơ bản của quá trình dạy học. Nhiều tác giả định nghĩa về họat động học: “Hoạt động học là hoạt động của HS nhằm lĩnh hội nội dung (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo), kinh nghiệm xã hội.”[13] “Hoạt động học là một hoạt động đặc thù của con người nhằm tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm mà loài người đã tích luỹ được, đồng thời phát triển những phẩm chất năng lực của người học”[31]. Chúng tôi cũng đồng ý với những quan niệm của các tác giả trên, tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, trong Lí luận dạy học (LLDH) hiện đại, cần hiểu rộng hơn về các đối tượng của hoạt động học. “Tri thức” và “kĩ năng” cũng như “kinh nghiệm” không đơn thuần chỉ là những gì được viết trong sách giáo khoa mà phải bao gồm cả PP làm việc và suy nghĩ của các nhà khoa học mà ngày nay chúng ta đặc biệt quan tâm trong QTDH. Với quan điểm HS là trung tâm trong QTDH, chúng ta quan tâm nhiều hơn đến các hoạt động mà từ đó HS tìm ra tri thức, biến nó thành cái riêng của mình. Hoạt động học không còn là sự tác động một chiều từ GV đến HS như người ta vẫn quen gọi là “truyền thụ” mà là quá trình hợp tác thống nhất giữa GV và HS trong đó GV tổ chức chỉ đạo, khuyến khích các hoạt động học. Có nghĩa là, người GV luôn luôn chuẩn bị bài giảng sao cho người học có thể tự khám phá, cùng khám phá tri thức cho chính họ, thông qua đó, họ học được các con đường tìm kiếm tri thức (PP làm việc), họ học được cách làm, cách suy nghĩ của các nhà khoa học mà ở đây chúng tôi muốn nói đến các nhà khoa học VL. Chúng tôi quan niệm: “Hoạt động học bao gồm tất cả các hoạt động trong và ngoài giờ học của HS dưới sự chỉ đạo của người thầy nhằm các mục tiêu chiếm lĩnh tri thức khoa học, thông qua đó các em học được PP làm việc và suy nghĩ của các nhà khoa học, tư duy của các em được phát triển”. 1.1.2. Động cơ và động lực học tập a/ Động cơ của các hoạt động học tập Trong phần này, động cơ của các hoạt động học học tập được gọi chung, ngắn gọn là động cơ học tập, là yếu tố đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng mang tính quyết định đến kết quả học tập của HS. Theo đại từ điển Tiếng việt: “Động cơ là những gì thôi thúc con người có những ứng xử nhất định một cách vô thức hay hữu ý và thường gắn liền với những nhu cầu”. [37] Theo J. Piaget: “Động cơ là tất cả các yếu tố thúc đẩy cá thể hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu và định hướng cho hoạt động đó”. Theo Lê Phước Lộc: “Động cơ là sự giác ngộ cho một mục đích để hoạt động. Nó kích thích được nhận thức, qui định hành động để thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người”.[17] Động cơ của con người không có sẵn từ khi mới sinh ra mà nó được hình thành trong quá trình vận động và phát triển của con người. Trong học tập, động cơ của HS không sẵn có từ khi mới cắp sách đến trường. Ở lứa tuổi nhỏ, việc học tập chỉ là để vui chơi với nhiều bạn bè, sự yêu thích cô giáo, thầy giáo hoặc để có thể trở thành một nhân vật hình tượng chung chung nào đó. Đến lứa tuổi THPT, các em có thể bắt đầu hình thành các động cơ học tập. Ngoài những biện pháp giáo dục của nhà trường, động cơ học tập của HS ở lứa tuổi này chủ yếu được hình thành từ các hoạt động chuyên môn, PP tổ chức dạy học bộ môn, sự “thông thái” của thầy cô về một khoa học nào đó… cùng với sự hoạt động có hiệu quả của HS, động cơ học tập đúng đắn của các em dần dần hình thành. Nghĩa là các em bắt đầu thấy hứng thú học, thấy ý nghĩa của môn học và sẽ thấy yêu thích môn học. Việc học trở thành nhu cầu thật sự đối với HS. Có nhiều cách phân loại động cơ học tập. Theo Lê Phước Lộc có thể phân thành 5 loại: Động cơ mang tính xã hội, động cơ nhận thức, động cơ nghề nghiệp, động cơ tự khẳng định bản thân và động cơ vụ lợi. - Động cơ mang tính xã hội: HS học bởi sự lôi cuốn và hấp dẫn của các yếu tố từ bên ngoài như: Gia đình động viên, khuyên nhủ, mọi người trong xã hội đi học hết, mình cũng phải đi,.. hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này ít nhiều mang tính cưỡng bức nó gắn liền với sự căng thẳng về tâm lí, đòi hỏi phải đấu tranh với chính bản thân, đôi khi không thể vượt qua những cám dỗ khác do chúng “hấp dẫn” hơn. Tuy nhiên, động cơ mang tính xã hội có thể sẽ là khởi nguồn cho những nhận thức đúng đắn trong quá trình học tập, tiếp xúc với bạn bè, thầy co giáo, cũng như có thể HS đó nhận được những động lực dần dần mạnh mẽ cho các hoạt động học tập. Nếu chỉ có động cơ mang tính xã hội không thôi thì HS khó có thể học tập tốt một cách lâu bền. - Động cơ nhận thức: mong muốn khao khát chiếm lĩnh, mở rông tri thức, say mê với việc học tập…, bản thân tri thức và PP tổ chức dạy học bộ môn có sức hấp dẫn, lôi cuốn HS. Động cơ này có thể sẽ bị tách ra làm hai loại đối với HS: 1- Học cho nhiều kiến thức là được; 2 - Học kiến thức, thông qua đó học cách suy nghĩ, cách tự tìm tòi. Loại thứ nhất, các em chưa hiểu hoặc trong quá trình học chưa được thầy cô giáo dạy cách học, chưa hứng thú nhiều với khám phá mới, chưa thật sự nỗ lực với việc tìm kiếm. Người có động cơ này luôn cần mẫn học, khắc phục trở ngại từ bên ngoài nhưng không hướng vào đấu tranh với chính bản thân. Hoạt động học tập của các em HS này được thúc đẩy bởi động cơ nhận thức thường không chứa đựng xung đột về trí tuệ bên trong. Loại thứ hai là biểu hiện của những HS đã giác ngộ thật sự về việc học tập của mình. Nhu cầu về kiến thức chỉ là một phần, song nhu cầu về việc “tìm đâu ra và tìm bằng cách nào” những tri thức mới mới là sự đòi hỏi thật sự của chủ thể. Khác với loại thứ nhất, với động cơ này, chủ thể có thể
Tài liệu liên quan