Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thấy có những sựvật bản chất không
phải là A nhưng lại được mang tên gọi của A do giữa A và chúng có một nét nào
đó tương đồng nhau. Đặc điểm này của các sựvật đã kích thích vào khảnăng
liên tưởng, giúp chúng ta nhận thức vềthếgiới khách quan đa dạng một cách
sinh động. Dựa vào thực tếcuộc sống, qua cảm nhận chủquan và cảm nhận của
thời đại, các tác giả đã đưa vào tác phẩm văn chương của mình những kết quả
liên tưởng ấy. Nói cách khác, trên cơsởkếthừa có chọn lọc và phát huy, các tác
giả đã thực hiện những liên tưởng của mình sao cho thỏa mãn được nhu cầu giao
tiếp của cộng đồng. Do đó, cách liên tưởng nhưvậy vừa có tính truyền thống,
tính thời đại, vừa mang tính cá nhân chủquan. Cách liên tưởng ấy chính là ẩn dụ
- một phương thức chuyển nghĩa phổbiến.
Việc hiểu và nắm vững phương thức chuyển nghĩa ẩn dụgóp phần làm giàu
vốn ngôn ngữ, làm tiếng Việt thêm phong phú, đa dạng vềý nghĩa. Mặt khác,
nếu biết sửdụng tốt phương thức này thì cách diễn đạt của ta chắc chắn sẽsúc
tích, bóng bẩy, truyền cảm, đạt hiệu quảgiao tiếp cao.
Hơn thếnữa, người thực hiện luận án này là một giáo viên phổthông, trực
tiếp đứng lớp. Cho nên việc hiểu kỹphương thức ẩn dụlại càng cần thiết hơn,
bởi nó còn giúp nâng cao khảnăng cảm thụvăn chương, khảnăng phân tích tác
phẩm sâu sắc, gợi cảm. Nhờvậy mới mong có được giờgiảng sinh động, có sức
truyền cảm mạnh, thu hút được hứng thú của học sinh.
Với tất cảnhững lý do nêu trên chúng tôi quyết định đi vào đềtài: Tìm hiểu
phương thức ẩn dụtrong tiếng Việt (thểhiện qua Ca dao trữtình, Thơtình
Xuân Diệu và thơtình Xuân Quỳnh ).
258 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1725 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu phương thức ẩn dụ trong tiếng Việt (thể hiện qua Ca dao trữ tình, Thơ tình Xuân Diệu và thơ tình Xuân Quỳnh ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP. HOÀ CHÍ MINH
PHAÏM THÒ XUAÂN RÔÙT
Chuyeân ngaønh : Ngoân ngöõ hoïc
Maõ soá : 60 22 01
LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ NGOÂN NGÖÕ HOÏC
NGÖÔØI HÖÔÙNG DAÃN KHOA HOÏC
PGS.TS. NGUYEÃN THÒ HAI
Thaønh phoá Hoà Chí Minh – 2007
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thấy có những sự vật bản chất không
phải là A nhưng lại được mang tên gọi của A do giữa A và chúng có một nét nào
đó tương đồng nhau. Đặc điểm này của các sự vật đã kích thích vào khả năng
liên tưởng, giúp chúng ta nhận thức về thế giới khách quan đa dạng một cách
sinh động. Dựa vào thực tế cuộc sống, qua cảm nhận chủ quan và cảm nhận của
thời đại, các tác giả đã đưa vào tác phẩm văn chương của mình những kết quả
liên tưởng ấy. Nói cách khác, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát huy, các tác
giả đã thực hiện những liên tưởng của mình sao cho thỏa mãn được nhu cầu giao
tiếp của cộng đồng. Do đó, cách liên tưởng như vậy vừa có tính truyền thống,
tính thời đại, vừa mang tính cá nhân chủ quan. Cách liên tưởng ấy chính là ẩn dụ
- một phương thức chuyển nghĩa phổ biến.
Việc hiểu và nắm vững phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ góp phần làm giàu
vốn ngôn ngữ, làm tiếng Việt thêm phong phú, đa dạng về ý nghĩa. Mặt khác,
nếu biết sử dụng tốt phương thức này thì cách diễn đạt của ta chắc chắn sẽ súc
tích, bóng bẩy, truyền cảm, đạt hiệu quả giao tiếp cao.
Hơn thế nữa, người thực hiện luận án này là một giáo viên phổ thông, trực
tiếp đứng lớp. Cho nên việc hiểu kỹ phương thức ẩn dụ lại càng cần thiết hơn,
bởi nó còn giúp nâng cao khả năng cảm thụ văn chương, khả năng phân tích tác
phẩm sâu sắc, gợi cảm. Nhờ vậy mới mong có được giờ giảng sinh động, có sức
truyền cảm mạnh, thu hút được hứng thú của học sinh.
Với tất cả những lý do nêu trên chúng tôi quyết định đi vào đề tài: Tìm hiểu
phương thức ẩn dụ trong tiếng Việt (thể hiện qua Ca dao trữ tình, Thơ tình
Xuân Diệu và thơ tình Xuân Quỳnh ).
2. Lịch sử vấn đề
Việc tìm hiểu phương thức ẩn dụ từ lâu đã được các nhà Việt ngữ học quan
tâm. Năm 1940, tác phẩm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm [50]
giới thiệu một cách sơ lược về ẩn dụ trong văn chương. Trong các giáo trình về
từ vựng học tiếng Việt (cụ thể: Nguyễn Văn Tu [121], Đỗ Hữu Châu [13],
Nguyễn Thiện Giáp [33]) đều có đề mục viết về hiện tượng chuyển nghĩa nói
chung, phương thức ẩn dụ nói riêng.
Bên cạnh đó các tác giả viết về phong cách học như: Đinh Trọng Lạc [56];
Cù Đình Tú [122], Nguyễn Nguyên Trứ [120], Nguyễn Thái Hòa [43],… cho
rằng ẩn dụ là một biện pháp tu từ chỉ dùng để trang trí, góp phần làm giàu hình
tượng, cảm xúc cho tiếng Việt. Song ở mỗi tác giả, ở mỗi thời điểm lại có cách
gọi và phân loại khác nhau.
Đinh Trọng Lạc [56; tr.103-111] gọi ẩn dụ là một phương thức chuyển
nghĩa, có khả năng gợi hình, gợi cảm. Về mặt ý nghĩa, tác giả phân ẩn dụ ra làm
ba loại: từ cụ thể đến cụ thể, từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ
thể. Cách phân loại này dựa vào tính cụ thể của đối tượng chọn làm ẩn dụ. Với
cách phân chia này, mối quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, hai hiện tượng
không được thể hiện rõ nét và cũng không thấy được tính đa dạng, phong phú
của ẩn dụ tu từ.
Cù Đình Tú [122; tr. 279] xem ẩn dụ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi
biểu thị đối tượng này dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên cơ sở của mối liên
tưởng về nét tương đồng giữa hai đối tượng. Dựa vào khả năng tương đồng giữa
hai đối tượng, tác giả chia ẩn dụ tiếng Việt ra làm năm loại: tương đồng về màu
sắc, tương đồng về tính chất, tương đồng về trạng thái, tương đồng về hành động
và tương đồng về cơ cấu. Nhìn chung, cách phân loại này phù hợp với chức năng
biểu cảm của ẩn dụ tu từ. Tuy nhiên, cách nhận định về ẩn dụ tu từ của Cù Đình
Tú mang nhiều tính truyền thống, chưa làm rõ các phương tiện và biện pháp tu
từ.
Đinh Trọng Lạc, một lần nữa, khi nghiên cứu lại các giáo trình và tài liệu về
phong cách học của mình trước đây, đồng thời tiếp thu những thành tựu mới của
ngôn ngữ học hiện đại, đã khẳng định ẩn dụ là Sự định danh thứ hai mang ý
nghĩa hình tượng, dựa trên sự tương đồng hay giống nhau giữa khách thể A được
định danh với khách thể B có tên gọi được chuyển sang dùng cho A [57; tr.52].
Căn cứ vào từ loại và chức năng của từ ẩn dụ, tác giả chia ẩn dụ ra làm 3 loại: ẩn
dụ định danh, ẩn dụ nhận thức và ẩn dụ hình tượng. Trong ba loại này, ẩn dụ
định danh và ẩn dụ nhận thức thuộc ẩn dụ từ vựng, hiệu quả tu từ được tạo nên
không lớn lắm; còn ẩn dụ hình tượng mang lại hiệu quả tu từ cao, nó tác động
vào trực giác của người nhận và đem lại khả năng sáng tạo.
Kể từ 1969 trên tạp chí ngôn ngữ, có nhiều bài viết về hiện tượng chuyển
nghĩa ẩn dụ như: Nguyễn Văn Mệnh [73]; Nguyễn Thế Lịch [67], [68], …
Nguyễn Thế Lịch, trong [68], cho rằng ẩn dụ là một hiện tượng chuyển
nghĩa được hình thành từ cấu trúc so sánh hoàn chỉnh sau khi đã lượt bớt các
yếu tố 3 (yếu tố thể hiện quan hệ so sánh) và yếu tố 1 (yếu tố bị/ được so sánh),
chỉ còn lại hoặc là yếu tố 2 (phương diện so sánh) hoặc là yếu tố 4 (yếu tố so
sánh) trong cấu trúc mà thôi. Ông còn cho rằng cùng một yếu tố chuẩn để so sánh
có thể có ba dạng thức song song tồn tại: so sánh, tổ hợp ẩn dụ và ẩn dụ. Không
phải ẩn dụ nào cũng tạo ra hiệu quả nghệ thuật cao hơn so sánh. Trong ngôn ngữ
nghệ thuật, chính những so sánh và tổ hợp ẩn dụ tươi mới rất sinh động, gợi cảm,
còn ẩn dụ tạo ra từ so sánh và tổ hợp ẩn dụ ấy lại chịu thiệt thòi là đã quen thuộc,
không còn bất ngờ nữa.
Thêm vào đó, trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ
(1981) có bài của Hoàng Lai [58], Nguyễn Ngọc Trâm [116]. Còn trong Những
vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông (1986) có bài của Nguyễn
Thế Lịch [66]. Trong Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á (1888) có bài của
Hà Quang Năng [79].
Theo các tác giả này, có nhiều cách tạo ra hiện tượng chuyển nghĩa trong
tiếng Việt. Nguyễn Ngọc Trâm cho rằng sự biến đổi các nét nghĩa trong từ đa
nghĩa chủ yếu là do hai hiện tượng đẳng cấu ngữ nghĩa và phi đẳng cấu ngữ
nghĩa dẫn tới việc chuyển nghĩa. Còn Hoàng Văn Hành thì khẳng định hiện
tượng chuyển nghĩa là hiện tượng tạo ra các đơn vị từ vựng phát sinh theo bốn
phương thức chính: ghép, láy, phỏng và chuyển. Trong khi đó, tác giả Hoàng Lai
lại nhận thấy quá trình chuyển nghĩa xảy ra nhờ vào mối quan hệ liên tưởng về
ngữ nghĩa giữa hai thành tố vốn xa lạ với nhau. Sở dĩ ta liên tưởng được là nhờ
một nghĩa vị chung nào đó vốn có trong bản chất của hai thành tố hoặc được gán
ghép vào từ ngoài trong một tình huống nhất định.
Ở một góc nhìn khác, ít nhiều liên quan đến hiện tượng chuyển nghĩa của
từ, có một loạt bài [111], [112], [113] và công trình [114] của Nguyễn Đức Tồn.
Trong đó, công trình Tìm hiểu đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy của người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác) [114] đã đi sâu
nghiên cứu vấn đề chuyển nghĩa theo hướng lý thuyết tâm lý - ngôn ngữ học tộc
người. Khi so sánh với cách liên tưởng của người Nga, người Anh… đồng thời
thông qua việc tìm hiểu đặc điểm dân tộc của việc định danh động vật, định danh
thực vật, định danh bộ phận cơ thể người của người Việt, thông qua những nội
dung về đặc điểm ngữ nghĩa của trường tên gọi động vật, trường tên gọi thực vật,
ngữ nghĩa của các từ chỉ bộ phận cơ thể người, ông đã chỉ ra đặc điểm tư duy liên
tưởng của người Việt.
Trong những năm gần đây, trên thế giới lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận
phát triển mạnh; đi theo hướng nghiên cứu này, ở Việt Nam gần đây cũng có
không ít bài báo và công trình. Những khảo cứu theo hướng đi này đã gợi mở ít
nhiều cho việc nghiên cứu vấn đề liên tưởng, chuyển nghĩa. Năm 1994, Lý Toàn
Thắng trong [99] đã cho ta một cái nhìn khái quát phương hướng nghiên cứu
phạm trù không gian trong tiếng Việt như: định hướng không gian, bản đồ tri
nhận không gian. Qua đó, mô hình không gian và cách tri nhận không gian của
người Việt Nam được trình bày rõ ràng. Năm 1998, Nguyễn Ngọc Thanh [98]
khẳng định rằng ẩn dụ là một cơ chế tri nhận đi từ cụ thể đến trừu tượng. Cơ chế
tri nhận này giúp ta hiểu thêm được khái niệm trừu tượng thời gian bằng các hình
ảnh cụ thể trong thế giới khách quan. Năm 2001, cũng Lý Toàn Thắng [100] nêu
lên cái cách thức mà người Việt dùng các loại từ để mô tả các thuộc tính không
gian của vật thể và từ đó xếp loại chúng. Căn cứ vào đó ta có thể suy đoán về
một cách thức riêng của tiếng Việt trong việc ý niệm hóa phân loại và mô tả thế
giới khách quan. Đây là một vấn đề đang thu hút sự chú ý của trào lưu ngôn ngữ
học tri nhận trên thế giới. Chắc rằng vấn đề này cũng liên quan không ít đến vấn
đề chuyển nghĩa nói chung, vấn đề liên tưởng ẩn dụ nói riêng.
Nhìn chung, vấn đề ẩn dụ được nghiên cứu không ít, nhưng chưa có công
trình nào khảo sát nó trong các tác phẩm văn học, xét trên trục thời gian, để phát
hiện những đặc điểm kế thừa, những đặc điểm sáng tạo của từng tác giả.
3. Phạm vi vấn đề nghiên cứu và mục đích của luận văn
3.1. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ nói chung cũng như phương thức ẩn dụ
nói riêng biểu hiện vô cùng sinh động, không dễ gì nắm bắt hết được. Thêm vào
đó, luận văn lại được định hướng là xem xét phương thức liên tưởng này trong sự
phát triển của việc sử dụng ngôn từ, cho nên vấn đề lại càng rộng. Để có thể thực
hiện được mục đích của mình trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ (cả về số lượng
trang, cả về thời lượng), trong những điều kiện hạn hẹp của bản thân học viên
(kiến thức về ngôn ngữ học, nhất là ngôn ngữ học hiện đại chưa rộng, chưa sâu),
người viết luận văn xin được hạn chế vấn đề trong khuôn khổ sau đây:
- Xem xét ẩn dụ tu từ (còn gọi là ẩn dụ phong cách; hay ẩn dụ hình tượng,
như cách gọi của Đinh Trọng Lạc [57] );
- Khảo sát vấn đề trong ca dao trữ tình và thơ trữ tình;
- Chỉ khảo sát trong 3 tác phẩm cụ thể (sẽ được nêu ở phần nguồn tư liệu
nghiên cứu ở mục 0.4.2.).
3.2. Mục đích chính của luận văn là tìm hiểu hiện tượng chuyển nghĩa, mà
cụ thể là phương thức ẩn dụ. Cho nên người thực hiện luận văn không đi vào
những vấn đề có tính chất tranh luận như khái niệm từ trong tiếng Việt, vấn đề
phân loại cấu tạo từ của tiếng Việt. Để thực hiện được mục đích chính của mình,
người viết chỉ xin chọn một giải pháp nào tương đối dễ nhận diện từ đối với mọi
người, nhất là đối với học sinh phổ thông.
4. Nhiệm vụ của luận văn
Người viết luận văn có nhiệm vụ phải trả lời các câu hỏi sau đây:
1./ Những từ ngữ nào trong ba tác phẩm nêu trên đã tham gia vào việc thực
hiện phương thức liên tưởng ẩn dụ?
2./ Những hình ảnh nào được các tác giả (dân gian, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh)
lấy làm cơ sở để thực hiện phương thức liên tưởng ẩn dụ?
3./ Các tác giả Xuân Diệu và Xuân Quỳnh có kế thừa phương thức ẩn dụ của
ca dao hay không? Họ tiếp thu nguyên mẫu hay vừa tiếp thu vừa sáng tạo?
4./ Xuân Quỳnh có kế thừa liên tưởng ẩn dụ của Xuân Diệu hay không?
5./ Những ẩn dụ nào là hoàn toàn của riêng Xuân Diệu, của riêng Xuân
Quỳnh?
5. Nguồn tư liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Nguồn tư liệu được chọn để khảo sát phương thức ẩn dụ tu từ trong tiếng
Việt là 3 tác phẩm cụ thể sau đây:
- Ca dao trữ tình chọn lọc (1998) - Nxb Giáo dục (Vũ Thúy Anh, Vũ Quang
Hào sưu tầm và tuyển chọn).
- Thơ tình Xuân Diệu (1983) - Nxb Đồng Nai (Kiều Văn tuyển chọn và giới
thiệu).
- Xuân Quỳnh thơ tình - Nxb Văn học
Chúng tôi chọn mảng đề tài trữ tình, vì nghĩ rằng trong phạm vi này phương
thức ẩn dụ tu từ có khả năng xuất hiện nhiều. Còn ca dao được chọn làm xuất
phát điểm vì tính chất cổ xưa của nó, và còn vì đó là nơi đúc kết các biến tấu của
ngôn từ dân gian. Nếu xuất phát điểm là ca dao, chúng tôi tin rằng có thể tìm thấy
những điểm kế thừa cũng như sáng tạo của những thế hệ nối tiếp. Xuân Diệu rồi
Xuân Quỳnh là hai trong những người nối tiếp trên trục thời gian. Tuy giữa họ về
tính thời đại không hoàn toàn trùng khít nhau, về giới tính khác nhau, những rung
động trong tâm hồn không như nhau, nhưng, trước hết, họ đều là những tác giả
của nhiều bài thơ tình nổi tiếng, và về mặt sử dụng ngôn từ cũng như sử dụng
hình ảnh có chỗ nào đó gần nhau giữa họ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Người thực hiện luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học nói chung, mang tính phương pháp luận, như: quan sát, thống kê, phân loại,
miêu tả, so sánh. Trong đó phương pháp thống kê được tiến hành cẩn thận, có
cân nhắc qua 3 tác phẩm thuộc nguồn tư liệu nghiên cứu. Phương pháp so sánh
cũng được vận dụng để thực hiện các bước so sánh sau: 1/- so sánh Ca dao trữ
tình và Thơ tình Xuân Diệu; so sánh Ca dao trữ tình và Xuân Quỳnh thơ tình; so
sánh Thơ tình Xuân Diệu và Xuân Quỳnh thơ tình; 2/- so sánh Ca dao trữ tình -
Thơ tình Xuân Diệu - Xuân Quỳnh thơ tình.
5.2.2. Người thực hiện luận văn còn vận dụng phương pháp phân tích ngữ
nghĩa của từ, xem xét từ ngữ trong văn cảnh, ngữ cảnh; nhưng không nhằm trình
bày cấu trúc ngữ nghĩa của từ. Các thao tác phân tích ngữ nghĩa của từ và việc
phát hiện cấu trúc ngữ nghĩa của từ chỉ được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị
của người viết. Tuy là vậy nhưng việc làm này vô cùng quan trọng đối với người
viết, vì kết quả mà nó đưa lại tạo cơ sở cho người viết phát hiện các đường dây
liên tưởng thuộc ẩn dụ. Những phát hiện cuối cùng này mới phục vụ cho mục
đích của luận văn. Do đó, có thể nói, việc vận dụng phương pháp phân tích ngữ
nghĩa của từ nhằm phát hiện các liên tưởng ẩn dụ; luận văn chỉ trình bày các liên
tưởng ẩn dụ.
5.2.3. Phương pháp trắc nghiệm khách quan
Để kiểm tra lại những phát hiện về các liên tưởng ẩn dụ có trong ba tác phẩm
nêu trên, người viết đã thực hiện phương pháp trắc nghiệm. Đối tượng được trắc
nghiệm là học sinh phổ thông trung học tại địa bàn người thực hiện luận văn
đang giảng dạy. Đây là đối tượng thích hợp vì các em có một trình độ kiến thức
văn học tương đối; đối với các tác phẩm nêu trên, các em đã và đang học; ngoài
ra, tuổi đời của các em đủ để hiểu những khuất chiết trong tâm hồn của con
người.
6. Ý nghĩa của đề tài và những đóng góp của luận văn
6.1. Về lý thuyết, việc nghiên cứu đề tài này giúp các nhà nghiên cứu ngôn
ngữ cũng như văn học hiểu rõ hơn cơ chế liên tưởng ẩn dụ trong ca dao cũng như
trong thơ của Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Những kết quả của luận văn có thể góp
phần nào đó vào việc phát hiện và xây dựng phong cách ngôn ngữ của hai tác giả
thơ nêu trên; tạo tiền đề cho việc xây dựng từ điển tác giả văn học.
6.2. Về thực tiễn, nếu luận văn được thực hiện tốt, những kết quả của nó có
thể vận dụng vào giảng dạy ngữ văn ở các cấp học. Đối với giáo viên, nó sẽ là tài
liệu tham khảo tốt. Đối với người học, nó sẽ giúp họ hiểu rõ hơn cơ chế liên
tưởng ẩn dụ trong ba tác phẩm đã nêu, giúp họ cảm nhận tốt ý đồ nghệ thuật của
các tác giả.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần dẫn nhập, kết luận, giải thích, phụ lục và tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài
Chương 2: Khảo sát phương thức liên tưởng ẩn dụ trong Ca dao trữ tình,
Thơ tình Xuân Diệu và Xuân Quỳnh thơ tình
Chương 3: So sánh cơ chế liên tưởng ẩn dụ từ Ca dao trữ tình đến Thơ tình
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh thơ tình
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm từ trong tiếng Việt
Để có thể thuận tiện hơn cho công việc khảo sát từ ngữ tham gia vào việc
thực hiện các liên tưởng ẩn dụ trong ba tác phẩm đã nêu, chúng tôi chấp nhận
quan niệm về từ của Nguyễn Thiện Giáp [32, tr.69]. Theo quan niệm này, từ
tiếng Việt có vỏ ngữ âm là một âm tiết, trên chữ viết được thể hiện bằng một
khối viết liền (Cũng có nghĩa là mỗi từ được cấu tạo bởi một tiếng). Nếu xét ở
góc độ phân biệt những hiện tượng trung tâm (vốn từ vựng cơ bản) và những
hiện tượng ngoại biên (từ vay mượn, nhất là bằng cách phiên âm; trường hợp: bù
nhìn, bồ hóng,…, với số lượng rất ít ỏi; kể cả trường hợp thường gọi là “từ láy”),
có lẽ, quan niệm này phản ánh được diện mạo vốn từ vựng cơ bản của tiếng Việt.
So với những ngôn ngữ như Pháp, Nga… thì số lượng từ có vỏ ngữ âm là một
âm tiết trong tiếng Việt rất lớn. Lại nữa, nếu chấp nhận trong tiếng Việt có từ
ghép như các ngôn ngữ đã nêu, thì rất nhiều trường hợp ranh giới giữa từ ghép và
các tổ hợp từ không rõ ràng (như các trường hợp: hoa hồng, áo dài, nhà trẻ…).
Thêm vào đó, trong các ngôn ngữ, hiện tượng chuyển nghĩa của từ thường xảy ra
ở những đơn vị có kích cỡ ngắn nhất. Bởi những lý do ấy mà chúng tôi tạm chấp
nhận giải pháp của Nguyễn Thiện Giáp để tiện cho việc triển khai đề tài.
1.2. Những vấn đề về ngữ dụng học
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi không thể không đụng chạm đến một số
vấn đề thuộc lý thuyết ngữ dụng như: nhân tố giao tiếp, chiếu vật và chỉ xuất, ý
nghĩa hàm ẩn và ý nghĩa tường minh (hiển ngôn). Về những vấn đề này chúng tôi
xin lĩnh hội cách trình bày của giáo sư Đỗ Hữu Châu [14; tr.4-19],
[15; tr.96-156], [11; tr.359- 414].
1.2.1. Nhân tố giao tiếp: Nhân tố giao tiếp bằng ngôn ngữ gồm ngữ cảnh,
ngôn ngữ và diễn ngôn.
Ngữ cảnh bao gồm đối ngôn, hoàn cảnh giao tiếp, thoại trường, ngữ huống.
Đối ngôn còn gọi là người tham gia giao tiếp. Họ phải ở trong trạng thái tinh thần
lành mạnh và có sự phân vai giao tiếp trong một cuộc thoại. Vì rằng giao tiếp là
tương tác cho nên vai giao tiếp còn gọi là vai tương tác (bao gồm vai nói, vai
nghe; còn gọi là vai phát, vai nhận). Khi giao tiếp mặt đối mặt giữa các đối ngôn
thì có sự luân phiên vai tương tác, ví dụ cuộc giao tiếp trong bài ca dao1 sau:
- Bây giờ mận mới hỏi đào,
Vườn hồng có lối, ai vào hay chưa?
- Mận hỏi thì đào xin thưa,
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. (54)
Song cũng có những cuộc giao tiếp chỉ có một đối ngôn phát, còn đối ngôn
kia nhận là chủ yếu, chẳng hạn bài ca dao sau đây:
Em còn bé dại thơ ngây,
Mẹ cha ép uổng từ ngày thiếu niên.
Cho nên duyên chẳng vừa duyên,
Có thương thì vớt em lên hỡi chàng. (187)
Giao tiếp ít nhất phải có hai đối ngôn. Nhưng trên thực tế, trong nhiều
trường hợp giao tiếp, vai nói vẫn là một, còn vai nghe lớn hơn hai, thậm chí hàng
nghìn, hàng vạn. Trong số đó, theo chúng tôi, các tác phẩm văn học, nhất là các
tác phẩm thơ thuộc loại giao tiếp này.
Quan hệ tương tác là quan hệ giữa các đối ngôn nảy sinh trong cuộc giao
tiếp. Ngoài nó, còn có quan hệ liên cá nhân, là quan hệ từ bên ngoài áp đặt lên
quan hệ tương tác. Đó là những quan hệ xã hội. Khi tham gia vào giao tiếp,
những quan hệ xã hội này (như tuổi tác, quyền lực, thân tình, xa lạ,…) chi phối
cả nội dung, cả hình thức của cuộc giao tiếp và chuyển thành quan hệ liên cá
nhân trong giao tiếp. Quan hệ tương tác còn một biểu hiện nữa là quan hệ vị thế
giao tiếp. Nó có tác động khởi phát, duy trì, chuyển hướng đề tài, phân phát lượt
nói… của các đối ngôn trong giao tiếp. Cho nên nói tới đối ngôn còn là nói tới ý
định, niềm tin, kế hoạch và các hành động thực thi kế hoạch giao tiếp. Hoàn cảnh
giao tiếp “bao gồm tổng thể các nhân tố chính trị, địa lí, kinh tế, văn hóa, lịch sử
với các tư tưởng, các chuẩn mực về đạo đức, ứng xử, với các thiết chế công trình,
các tổ chức… tương ứng, tạo nên cái gọi là môi trường xã hội – văn hóa - địa lí
cho các cuộc giao tiếp” [15; tr. 110-111]. Thoại trường hay hiện trường giao tiếp
là không gian, thời gian của cuộc giao tiếp. “Khái niệm không gian ở đây chỉ nơi
chốn cụ thể với những điều kiện, những trần thiết, các đồ vật, các nhân vật tiêu
biểu cho một kiểu loại không gian đòi hỏi phải có một cách ứng xử bằng lời
tương thích” [15; tr. 111]. Khái niệm thời gian ở đây cũng cụ thể. “Thời gian
thoại trường của một không gian thoại trường đòi hỏi phải có những cách thức
nói năng tương thích” [15; tr. 111]. Nói tới hoàn cảnh giao tiếp còn là nói tới hiện
thực đề tài, nói tới “thế giớ