Giáo sư Trần Văn Giàu từng viết: “ Trải qua mấy ngàn năm, nước ta vẫn 
là một xứ nông nghiệp và lấy xã thôn làm đơn vị cơ sở. Tới đầu thế kỷ XIX, 
cương vực nước ta mới ổn định và thống nhất về mặt hành chính suốt từ ải 
Nam Quan tới mũi Cà Mau, gồm khoảng 18.000 làng với các tên gọi khác 
nhau như xã, thôn, phường, giáp, điếm, ấp, lân, trang, trại, man, sách . Làng 
nước gắn bó xương thịt với nhau, vì nước là thân thể, còn làng là chi thể. Cả 
làng và nước đều sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước.
Cho nên, hai vấn đề nông nghiệp và xã thôn là vô cùng quan trọng đối 
với sự tồn vong và lớn mạnh của dân tộc ta.” [8, tr.5]
Chính vì lẽ đó việc quản lý nông nghiệp và ruộng đất là một trong 
những công việc trọng tâm của các vương triều phong kiến Việt Nam nói 
chung và triều Nguyễn nói riêng. “ Nhà nước Quân chủ chuyên chế trung 
ương tập quyền có nắm chắc được ruộng đất mới có cơ sở để thu tô thuế-mà 
trong các xã hội tiền tư bản đều sống bằng nguồn thu từ tô thuế của dân. Với 
một đất nước nông nghiệp như Việt Nam vấn đề quản lý ruộng đất đặc biệt 
quan trọng. Việc quản lý chặt chẽ và có hiệu quả ruộng đất nhà nước có thể 
chi phối được mọi mặt của xã hội, trong đó trước hết là chi phối người nông 
dân. Đồng thời trên cơ sở làm tốt công việc này quyền sở hữu tối cao của nhà 
nước đối với ruộng đất trong cả nước mới được xác lập một cách vững chắc” [31]
Chúng ta đi vào nghiên cứu chế độ sở hữu ruộng đất của các triều đại 
là đi vào vấn đề cơ bản, then chốt để giải mã lịch sử xã hội Việt N am 
phong kiến.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 107 trang
107 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1763 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện ba bể nửa đầu thế kỷ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 
NGUYỄN ĐỨC THẮNG 
TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT 
VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA BỂ 
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX 
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ 
THÁI NGUYÊN - 2009 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 
NGUYỄN ĐỨC THẮNG 
TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT 
VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA BỂ 
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX 
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam 
Mã số: 60.22.54 
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ 
 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN 
THÁI NGUYÊN - 2009 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
1 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Giáo sư Trần Văn Giàu từng viết: “Trải qua mấy ngàn năm, nước ta vẫn 
là một xứ nông nghiệp và lấy xã thôn làm đơn vị cơ sở. Tới đầu thế kỷ XIX, 
cương vực nước ta mới ổn định và thống nhất về mặt hành chính suốt từ ải 
Nam Quan tới mũi Cà Mau, gồm khoảng 18.000 làng với các tên gọi khác 
nhau như xã, thôn, phường, giáp, điếm, ấp, lân, trang, trại, man, sách ... Làng 
nước gắn bó xương thịt với nhau, vì nước là thân thể, còn làng là chi thể. Cả 
làng và nước đều sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. 
Cho nên, hai vấn đề nông nghiệp và xã thôn là vô cùng quan trọng đối 
với sự tồn vong và lớn mạnh của dân tộc ta...” [8, tr.5] 
Chính vì lẽ đó việc quản lý nông nghiệp và ruộng đất là một trong 
những công việc trọng tâm của các vương triều phong kiến Việt Nam nói 
chung và triều Nguyễn nói riêng. “Nhà nước Quân chủ chuyên chế trung 
ương tập quyền có nắm chắc được ruộng đất mới có cơ sở để thu tô thuế-mà 
trong các xã hội tiền tư bản đều sống bằng nguồn thu từ tô thuế của dân. Với 
một đất nước nông nghiệp như Việt Nam vấn đề quản lý ruộng đất đặc biệt 
quan trọng. Việc quản lý chặt chẽ và có hiệu quả ruộng đất nhà nước có thể 
chi phối được mọi mặt của xã hội, trong đó trước hết là chi phối người nông 
dân. Đồng thời trên cơ sở làm tốt công việc này quyền sở hữu tối cao của nhà 
nước đối với ruộng đất trong cả nước mới được xác lập một cách vững chắc” [31] 
 Chúng ta đi vào nghiên cứu chế độ sở hữu ruộng đất của các triều đại 
là đi vào vấn đề cơ bản, then chốt để giải mã lịch sử xã hội Việt Nam 
phong kiến. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
2 
 Nhà nước phong kiến lấy nông nghiệp làm gốc, là cơ sở của nền kinh tế 
đất nước. Chính vì vậy, tình hình ruộng đất và nông nghiệp có ý nghĩa vô 
cùng quan trọng, qua việc nghiên cứu tình hình ruộng đất và nông nghiệp 
giúp chúng ta hiểu biết về chính sách về ruộng đất, thực trạng nông nghiệp 
từng địa phương. Từ thực tiễn đó cho chúng ta những hiểu biết cơ bản, toàn 
diện về những vấn đề xã hội, chính trị của từng địa phương. Đồng thời giúp 
lý giải thêm những vấn đề liên quan đến sản xuất, tập quán sản xuất, sinh hoạt 
văn hoá, các mối quan hệ xã hội cũng như sự phân hoá giai cấp trong làng xã. 
Từ những kinh nghiệm được đúc kết trong quá trình nghiên cứu tình 
hình ruộng đất và nông nghiệp không chỉ có tác dụng tìm hiểu địa phương đó 
trong một khoảng thời gian nhất định là nửa đầu thế kỷ XIX, mà còn có ý 
nghĩa trong cuộc sống hiện đại. Chúng ta có thể học tập từ cha, ông ta trên 
nhiều lĩnh vực như: quản lý ruộng đất, kinh nghiệm canh tác, cải tạo tự nhiên, 
tìm hiểu về dòng họ mình thời xưa, kết cấu làng bản trong lịch sử… 
Xuất phát từ quan điểm nghiên cứu, tìm hiểu tình hình nông nghiệp và 
chế độ quản lý ruộng đất triều Nguyễn - một trong những vấn đề cơ bản của 
lịch sử phong kiến Việt Nam, từ đó tìm hiểu tình hình ruộng đất, nông nghiệp 
của huyện Ba Bể qua một thời kỳ lịch sử cụ thể là nửa đầu thế kỷ XIX. Việc 
nghiên cứu này cũng có thể góp phần thực hiện chính sách của Đảng, nhà 
nước trong việc đầu tư phát triển kinh tế, xã hội các tỉnh trung du miền núi 
phía Bắc nói chung và Bắc Kạn nói riêng. Chúng tôi lựa chọn đề tài “Tình 
hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn) nửa 
đầu thế kỷ XIX ” làm đề tài tốt nghiệp. 
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 
Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp từ lâu đã được các sử gia 
phong kiến nhà Nguyễn chú ý. Có thể ra các tác phẩm tiêu biểu có đề cập đến 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
3 
vấn đề nông nghiệp và ruộng đất như: Lịch triều hiến chương loại chí, Đại 
Nam nhất thống chí, Đồng Khánh dư địa chí... 
Từ sau năm 1945 trở lại đây đã có nhiều công trình nghiên cứu sâu rộng 
về tình hình ruộng đất và nông nghiệp Việt Nam trong lịch sử như: Chế độ 
ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI-XVIII của Trương Hữu Quýnh, Tìm hiểu 
chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX của Vũ Huy Phúc, Tình hình 
ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn của Trương 
Hữu Quýnh - Đỗ Bang (chủ biên), Địa Bạ Hà Đông của Phan Huy Lê và 
P.Brocheux, Địa bạ cổ Hà Nội của Phan Huy Lê, Nghiên cứu địa bạ triều 
Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu... 
Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu về tình hình nông nghiệp và ruộng đất 
Việt Nam, dựa trên nguồn sử liệu chính thống và những nguồn tư liệu địa 
phương như văn bia, gia phả, hương ước…Trên cơ sở đó thu được thành quả 
to lớn, hệ thống hoá chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn và tác động của nó 
đối với kết cấu xã hội… 
Những thành quả trên là cơ sở tham khảo quan trong giúp chúng tôi 
trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài. 
Trong phạm vi địa phương đã có một số công trình nghiên cứu được 
xuất bản thành sách,có đề cập tới vấn đề đang được nghiên cứu như: Bản sắc 
và truyền thống văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, Lịch sử Đảng bộ huyện Ba 
Bể (tập 1,2,3), Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ… 
Đây là những tác phẩm nghiên cứu trực tiếp về huyện Ba Bể, là nguồn tư liệu 
để nghiên cứu kết hợp làm nổi bật vấn đề. 
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi thừa hưởng rất ít các kết quả 
nghiên cứu của những người đi trước. Đặc biệt, một công trình nghiên cứu có 
đối tượng là địa bạ huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến nay chưa được thực hiện. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
4 
 Mặc dù vậy, một số luận văn Thạc sĩ hay khoá luận tốt nghiệp của sinh 
viên về tình hình ruộng đất và nông nghiệp từng địa phương gần đây đã được 
thực hiện như: Khoá luận tốt nghiệp Tình hình ruộng đất và kinh tế nông 
nghiệp huyện Phú Lương (Thái Nguyên), nửa đầu thế kỷ XIX của Nguyễn Thị 
Mai Anh,Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Đồng Hỷ (Thái 
Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX của Mai Thị Hồng Vinh, Luận văn Thạc sĩ 
Huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn thế kỷ XIX của Nông Quốc Huy, Huyện Phú 
Bình tỉnh Thái Nguyên qua tư liệu địa bạ triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX 
của Lê Thị Thu Hương… 
Chúng tôi xem các thành quả nghiên cứu của những người đi trước là 
những ý kiến gợi mở, những kinh nghiệm quý báu để thực hiện đề tài nghiên 
cứu địa bạ của mình, nhằm mục đích tìm hiểu các vấn đề trên. Đặc biệt 
những địa phương có đặc thù gần gũi về mặt địa lý đối với địa bàn huyện Ba 
Bể sẽ là đối tượng để chúng tôi so sánh và đối chiếu. 
Như vậy, cho đến nay, chưa có một tác phẩm là kết quả của một công 
trình nghiên cứu toàn diện về nông nghiệp và địa bạ vùng trung du và miền 
núi phía Bắc được xuất bản. Chính vì vậy, vẫn còn nhiều vấn đề về chế độ sở 
hữu ruộng đất, thành phần dân tộc, tình hình ruộng đất nông nghiệp ... của 
vùng này còn trống vắng cần được nghiên cứu. 
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 
- Mục đích nghiên cứu: thực hiện đề tài “Tình hình ruộng đất và kinh 
tế nông nghiệp huyện Ba Bể(tỉnh Bắc Kạn) nửa đầu thế kỷ XIX ”, trên cơ 
sở nguồn tư liệu khai thác được, chúng tôi mong muốn góp phần phản ánh 
một cách khách quan, khoa học về ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba 
Bể, tỉnh Bắc Kạn vào thời điểm giữa thế kỷ XIX. Từ đó, đề tài tiến hành phân 
tích và đưa ra một số nhận xét về tình hình ruộng đất và cơ cấu kinh tế - xã 
hội của địa phương. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
5 
- Đối tượng nghiên cứu: tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp 
huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX. 
- Giới hạn nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu tình hình ruộng đất và 
kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn nửa đầu thế kỷ XIX. Đây là 
giai đoạn lịch sử Việt Nam có nhiều biến động về kinh tế, chính trị, xã hội. 
Điều đó đã tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của huyện Ba Bể, khi 
đó còn nằm trong tỉnh Thái Nguyên. 
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 
- Nguồn tư liệu thành văn: bao gồm những tài liệu chính sử của quốc sử 
quán triều Nguyễn như Lịch triều hiến chương loại chí, Việt sử thông giám 
cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Đồng Khánh dư 
địa chí ... 
Đặc biệt những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Chế độ 
ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI-XVIII của Trương Hữu Quýnh, Tìm hiểu 
chế độ ruộng đất Việt Nam của Vũ Huy Phúc, Địa Bạ Hà Đông của Phan Huy 
Lê và P.Brocheux, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu ... 
- Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, Địa lý tỉnh 
Bắc Kạn... 
- Nguồn tư liệu thực địa, điền dã: các tài liệu truyền miệng, truyện kể, 
truyền thuyết, ca dao, tục ngữ địa phương... 
- Nguồn tư liệu địa bạ: bao gồm 21 đơn vị địa bạ có niên đại Minh 
Mệnh 21 (1840) và một đơn vị địa bạ có niên hiệu Gia Long 4 (1805) đang 
được lưu giữ tai Trung tâm lưu tr÷ quốc gia I, Hà Nội với các ký hiệu từ 8195 
đến 8257. Hầu hết các thôn, xóm đều có địa bạ, đây là cơ sở để chúng tôi 
phục dựng lại tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiêp của huyện Ba Bể 
nửa đầu thế kỷ XIX. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
6 
Trên cơ sở thực tế là nguồn tư liệu gốc địa bạ triều Nguyễn, chúng tôi 
đặc biệt chú ý khâu giám định, biên dịch tư liệu chữ Hán. Trên cơ sở khảo sát 
tư liệu gốc kết hợp với phân tích, định lượng để bóc tách và xử lý tư liệu 
trong nguồn tư liệu địa bạ vốn đề cập đến nhiều vấn đề, nhằm tìm hiểu chính 
xác tình hình sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của huyện Ba Bể, đồng 
thời xử lý số liệu, so sánh, đối chiếu với các nguồn tư liệu khác có liên quan. 
Kết hợp khai thác nguồn tư liệu thành văn, đồng thời chúng tôi sử dụng 
phương pháp hồi cố và điền dã làm trọng tâm. Sử dụng phương pháp lịch sử 
và phương pháp lôgíc, phương pháp thống kê, đối sánh,phương pháp phân 
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân loại, phương pháp phê phán 
tư liệu nhằm mục đích làm rõ vấn đề nghiên cứu. 
5. Đóng góp của luận văn 
Đề tài này được thực hiện nhằm đạt được những thành quả cụ thể: 
Từ góc độ địa lý lịch sử phân tích một cách khái quát về vị trí địa lý 
huyện Ba Bể. 
Thống kê chi tiết địa bạ huyện Ba Bể tới từng chủ sở hữu. 
Trên cơ sở các kết quả thống kê diện tích, chúng tôi tiến hành phân tích 
và đối chứng so sánh, rút ra những kết luận về ảnh hưởng của những thập kỷ 
chiến tranh, loạn lạc tới tình hình ruộng đất và nông nghiệp, đặc điểm chế độ 
sở hữu ruộng đất của huyện Ba Bể. Trên cơ sơ phân tích địa bạ, luận văn tìm 
hiểu phong tục tập quán liên quan đến ruộng đất và nông nghiệp của đồng bào 
các dân tộc huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX. 
Đúc rút những kinh nghiệm của cha, ông trong việc quản lý và khai thác 
đất đai. Cung cấp thêm tư liệu giúp địa phương phát triển kinh tế nông nghiệp 
một cách có hiệu quả nhất. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
7 
6. Cấu trúc của luận văn 
Luận văn gồm 103 trang, được chia làm 3 phần, phần mở đầu (7 trang), 
phần nội dung ( 86 trang), phần kết luận (5 trang). Ngoài ra còn có 5 trang tài 
liệu tham khảo và phần phụ lục. 
Phần nội dung được chia làm 3 chương: 
Chương 1: Khái quát về huyện Ba Bể - Tỉnh Bắc Kạn (17 trang). 
Chương 2: Tính hình ruộng đất huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX (41 
trang). 
Chương 3: Kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX (28 
trang). 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
8 
CHƢƠNG 1 
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN BA BỂ - TỈNH BẮC KẠN 
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 
1.1.1. VÞ trÝ ®Þa lý 
Huyện Ba Bể ngày nay là huyện miền núi, vùng cao của tỉnh Bắc Kạn, 
cách thị xã tỉnh lỵ 60 km về phía Tây bắc, cách thủ đô Hà Nội 230 km. Ba Bể 
nằm ở Tây Bắc tỉnh Bắc Kạn, phía bắc giáp huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao 
Bằng và huyện Pác Nặm (trước đây là 10 xã thuộc Ba Bể năm 2003 được chia 
tách thành lập huyện Pắc Nặm), phía tây giáp huyện Na Hang, tỉnh Tuyên 
Quang, phía đông giáp huyện Ngân Sơn, phía nam giáp huyện Bạch Thông và 
Chợ Đồn. Huyện Ba Bể nằm trong toạ độ địa lý từ 22027’ đến 22035’ vĩ độ 
Bắc và 105044’ đến 105058’ kinh độ Đông. Huyện Ba Bể có vị trí địa lý tương 
đối thuận lợi để giao lưu, phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội với các huyện 
trong tỉnh và các tỉnh lân cận. 
 Theo số liệu thống kê mới nhất năm 2009, huyện có tổng diện tích là 
678,09km
2
 tương đương 68.412 ha (bằng 14,1% diện tích tỉnh Bắc Kạn), 
trong đó hơn 90% là rừng núi và sông, hồ. Trung tâm của huyện là huyện lị 
Chợ Rã và 15 xã trực thuộc là: Mỹ Phương, Chu Hương, Yến Dương, Địa 
Linh, Hà Hiệu (đầu thế kỷ XIX có tên là Hạ Hiệu đến cuối thế kỷ XIX đổi tên 
thành Hà Hiệu) [20,tr.3], Phúc Lộc, Bành Trạch, Cao Trĩ, Khang Ninh, Cao 
Thượng, Thượng Giáo, Nam Mẫu, Quảng Khê, Đồng Phúc, Hoàng Trĩ. 
Ba Bể là một huyện miền núi với bề mặt địa hình bị chia cắt mạnh và có 
độ dốc lớn, hướng núi không đồng nhất. Độ cao trung bình trên 600m so với 
mặt nước biển, nơi có địa hình cao nhất là 1517m nằm trên đỉnh Phia Bjooc. 
Địa hình Ba Bể nghiêng dần theo hướng đông bắc - tây nam. Huyện Ba Bể có 
địa hình hiểm trở nhưng hùng vĩ và đa dạng về sinh thái. Cánh cung sông 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
9 
Gâm chạy dài theo hướng đông bắc - tây nam xuyên suốt địa giới của huyện 
với dãy Phja Bjoóc trùng điệp, hùng vĩ như một bức trường thành. ở Phía tây 
bắc và đông nam có hai ngọn núi Phja Mạ cao 1.980m và Phja Ngoàm cao 
1.190m. Ba Bể có nhiều hang động kỳ thú, độc đáo có thể cải tạo thành nhiều 
điểm du lịch đặc sắc, hấp dẫn. 
Trên địa bàn huyện có hồ Ba Bể, đây là một hồ kiến tạo lớn nhất và cũng 
là một danh thắng nổi tiếng cả nước. Hồ Ba Bể nằm trên độ cao 145m, chứa 
khoảng gần 5 triệu m3 gồm ba hồ (Pộ Nằm, Pộ Lự, Pộ Làng) dài gần 9 km, 
nơi rộng nhất tới gần 2 km, sâu chừng 30 - 40m, là hồ kiến tạo được cấu tạo 
trong đá phiến và đá vôi. Hồ hơi eo lại ở giữa thành dạng một hành lang giữa 
các vách đá dựng đứng. Giữa hồ có 3 đảo nhỏ, lớn nhất là đảo An Mã cùng 
với hồ Ba Bể là vườn Quốc gia Ba Bể với một hệ thống rừng đặc dụng, di sản 
thiên nhiên quý giá có diện tích 23.340ha, ở đây có tới 417 loài thực vật và 
299 loài động vật có xương sống. 
Huyện Ba Bể có rất nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt 
là ngành du lịch sinh thái. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để tỉnh 
Bắc Kạn đầu tư phát triển thoát nghèo. 
1.1.2. Điều kiện tự nhiên 
Theo sách Đại Nam nhất thống chí mục thổ sản cho biết, châu Bạch 
Thông nói chung và Ba Bể nói riêng là vùng khá phong phú về các loại thổ 
sản và khoáng sản. Châu Bạch Thông có mỏ vàng Bằng Thành, mỗi năm thu 
thuế 15 lạng, mỏ sắt Quảng Khê 500 cân. Các loai lâm thổ sản quý đã được 
khai thác và sử dụng trong cuộc sống lao động và sản xuất như: 
 “Cỏ tranh, lá cọ, các loại mây, hậu phác, sa nhân, tre nứa, tre gai, tre hoa 
(tức ban trúc, có vằn tròn, như hình trôn ốc, chất cứng rắn, người ta thường 
dùng làm đòn cáng), gỗ lim, gỗ sến, gỗ đinh, gỗ táu, gỗ xoan: các thứ kể trên đều 
sản ở các châu huyện Đông Hỉ, Phổ Yên, Phú Lương và Bạch Thông” [7, tr.181] 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
10 
Về địa hình: huyện Ba Bể có thể chia thành ba khu vực. Các xã phia Tây 
như Nam Mẫu, Quảng Khê, Cao Trĩ, Hoàng Trĩ với những dãy núi đá vôi cao 
trên 1000m, xen giữa là các thung lũng hẹp tạo thành những dãy núi dựng 
đứng treo leo. Độ cao phổ biến từ 600 - 1000m, độ dốc trên 30. Đây là vùng 
núi cao điển hình, ít có điều kiện phát triển nông nghiệp. 
Phía Nam là các xã với địa hình núi đất độ cao từ 300 - 400m, độ dốc 
bình quân trên 20 nhưng bị chia cắt mạnh bởi các khe suối, là địa bàn có thể 
phát triển nông nghiệp và nông - lâm kết hợp. Đây là vùng có tiềm năng lớn 
để phát triển các loại cây ăn quả, cây lâm nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. 
Vùng trung tâm huyện và các xã phụ cận là các thung lũng phân bố dọc 
theo các dòng sông, dòng suối. Xen giữa các thung lũng là các dãy núi có độ 
cao trung bình từ 200 - 300m. Diện tích vùng này khoảng 1000ha đây là vùng 
tập trung các cánh dồng mầu mỡ của huyện. 
Với đặc điểm bao gồm cả ba loại hình núi đá vôi, núi đất và thung lũng 
là đặc điểm thuận lợi phát triển nông lâm nghiệp kết hợp,đa dạng hoá cây 
trồng, vật nuôi 
Về khí hậu: Theo sách Đồng Khánh dư địa chí thì khí hậu chung của 
châu Bạch Thông là: “Khí trời nhiều lạnh rét, khí đất ẩm ướt, cuối xuân còn 
lạnh, đến mùa hạ mới hơi nóng, đầu thu đã rét, đến mùa đông rét đậm. Mùa 
đông và mùa xuân sương mù khí núi che phủ bầu trời, trước giờ Tý sau giờ 
Thân từ nhìn quanh không thấy núi” [10, tr.820] 
Ba Bể có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa nóng từ tháng tư đến 
tháng mười, mùa lạnh từ tháng mười một đến tháng ba năm sau. Nhìn chung 
Ba Bể có đặc điểm khí hậu tương đối thuận lợi cho việc phát triển nông - lâm 
nghiệp theo hướng đa dạng hoá cây trồng, vât nuôi. 
- Các dạng thời tiết chính: Thời tiết giá rét-gió Mùa Đông bắc, thời tiết 
nồm, thời tiết sương muối, thời tiết khô nóng, thời tiết mây mù.. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
11 
Sông ngòi, thuỷ văn: Ba Bể có những hệ thống sông suối khá dày và 
trực tiếp chi phối chế độ thuỷ văn của huyện, song các sông suối đa phần đều 
có đầu nguồn hẹp, độ dốc lớn nên thường gây ra lũ ống, lũ quét và ngập úng 
về mùa mưa, ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất cây trồng và làm xói lở, vùi 
lấp một phần diện tích nông nghiệp. Cụ thể Ba Bể có các hệ thống sông chính: 
- Sông Năng: Bắt nguồn từ vùng núi thuộc huyện Bảo Lạc - Cao Bằng 
chảy vào tỉnh Bắc Kạn ở xã Bằng Thành, huyện Pác Nặm. Một nhánh phụ bắt 
nguồn từ phần phía đông của dãy Phia Bjooc, theo hướng đông - tây, chảy 
qua các xã Chu Hương, Mỹ Phương, Hà Hiệu và nhập với nhánh chính trên 
địa bàn xã Bành Trạch đi qua thị trấn Chợ Rã, xã Thượng Giáo, xã Cao Trĩ, 
Khang Ninh, sau đó nhận được nước của sông Chợ Lèng rồi chảy sang địa 
phận Tuyên Quang.Tổng chiều dài 113km2, phần qua Bắc Kạn 87km2. Tổng 
lưu vực rộng 2270km2 với phần chảy qua Bắc Kạn rộng 890km2. Hướng chảy: 
Từ Cao Bằng - Bằng Thành (Pắc Nặm) - Xuân La - Anh Thắng - Bành 
Trạch. Hướng Tây Bắc - Đông Nam. 
Từ Bành Trạch- Cao Thượng - Tuyên Quang theo hường Đông – Tây. 
Sông qua núi Lũng Nham tạo thành động Puông dài 300m rộng và cao 
30- 40m. Hết địa phận Bắc Kạn, sông bị chặn bởi nhiều tảng đá to, chia thành 
các dòng nhỏ và tạo thành thác Đầu Đẳng hùng vĩ dài hơn 1000m, chảy sát hồ 
Ba Bể nên sông có cửa thông với hồ là cửa Bế Cam (Nam Mẫu). Sông có tiềm 
năng thủy điện lớn hiện đang xây dựng nhà máy thuỷ điện Na Hang(Tuyên 
Quang). Cuối cùng sông Năng đổ vào sông Gâm ở Tuyên Quang. 
Sông Năng có nhiều sông, suối nhỏ đổ vào sông như sông Bộc Bố, sông 
Hà Hiệu. 
- Sông Chợ Lèng chảy vào lòng hồ Ba Bể bắt nguồn từ dãy núi Phia 
Booc chảy theo hướng đông nam - tây bắc, qua địa bàn huyện Ba Bể trên địa 
phận các xã Đồng Phúc, Quảng Khê, Nam Mẫu. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
12 
- Sông Tả Han và suối Bó Lù đều bắt nguồn từ dãy Phia Bjooc chảy vào 
hồ Ba Bể. 
- Suối Cao Thượng bắt nguồn từ xã Cổ Linh huyện Pắc Nặm chảy qua 
địa bàn xã Cao Thượng rồi hoà vào sông Năng. 
Điều kiện tự nhiên của Ba Bể có nhiều thuận lợi để phát triển nông - lâm 
nghiêp. Mặc dù vậy, Ba Bể cần phải đầu tư nâng cấp và phát triển mạng lưới 
giao thông đường bộ để mở rộng thị trường, tạo điều kiện thông thương giao lưu 
hàng hoá phát triển. Trong thời gian vừa qua mạng lưới giao thông của tỉnh 
Bắc Kạn nói chung và