Luận văn Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Sông Đà 12-5

Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, cùng với sự đổi mới và phát triển của đất nước, cơ chế quản lý kinh tế cũng có sự thay đổi toàn diện và sâu sắc, tuy nhiên cùng một lúc không thể giải quyết được tất cả những vấn đề còn tồn tại trong quản lý kinh tế. Một trong những vấn đề nan giải trong quản lý kinh tế hiện nay là công tác quản lý kinh tế trong xây dựng cơ bản, đây là lĩnh vực có tỷ lệ thất thoát vốn đầu tư khá cao. Để quản lý chi phí trong xây dựng cơ bản, các doanh nghiệp đã sử dụng nhiều phương pháp, công cụ quản lý khác nhau. Một trong những công cụ được nhà quản lý quan tâm hàng đầu là công tác kế toán nói chung và công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phảm xây lắp nói riêng. Trong doanh nghiệp xây dựng cơ bản, công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm luôn được xác định là khâu trung tâm của công tác kế toán. Chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu kinh tế được các nhà quản lý doanh nghiệp đặc biệt quan tâm vì chúng gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó để đảm bảo tính đầy đủ và chính xác của giá thành sản phẩm đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này được thực hiện thông qua công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. Ý thức được tác dụng to lớn của công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm để tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường, Xí nghiệp Sông Đà 12-5 luôn cải tiến công tác kế toán phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế và chế độ kế toán của Nhà nước.

doc79 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1206 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Sông Đà 12-5, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, cùng với sự đổi mới và phát triển của đất nước, cơ chế quản lý kinh tế cũng có sự thay đổi toàn diện và sâu sắc, tuy nhiên cùng một lúc không thể giải quyết được tất cả những vấn đề còn tồn tại trong quản lý kinh tế. Một trong những vấn đề nan giải trong quản lý kinh tế hiện nay là công tác quản lý kinh tế trong xây dựng cơ bản, đây là lĩnh vực có tỷ lệ thất thoát vốn đầu tư khá cao. Để quản lý chi phí trong xây dựng cơ bản, các doanh nghiệp đã sử dụng nhiều phương pháp, công cụ quản lý khác nhau. Một trong những công cụ được nhà quản lý quan tâm hàng đầu là công tác kế toán nói chung và công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phảm xây lắp nói riêng. Trong doanh nghiệp xây dựng cơ bản, công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm luôn được xác định là khâu trung tâm của công tác kế toán. Chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu kinh tế được các nhà quản lý doanh nghiệp đặc biệt quan tâm vì chúng gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó để đảm bảo tính đầy đủ và chính xác của giá thành sản phẩm đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này được thực hiện thông qua công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. Ý thức được tác dụng to lớn của công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm để tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường, Xí nghiệp Sông Đà 12-5 luôn cải tiến công tác kế toán phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế và chế độ kế toán của Nhà nước. Xuất phát từ lý luận thực tiễn, sau một thời gian thực tập tại Xí nghiệp Sông Đà 12-5, em chọn đề tài: “Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Sông Đà 12-5” làm đề tài luận văn tốt ngiệp của mình. Nội dung luận văn gồm những phần sau: Chương I: Những vẩn đề lý luận chung về tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Chương II: Thực trạng tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Xí nghiệp Sông Đà 12-5. Chương III: Một số ý kiến nhằm cải thiện công tác tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở xí nghiệp Sông Đà 12-5. Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, em đã được thầy giáo Dương Nhạc và các anh chị trong phòng Tài chính – kế toán của Xí nghiệp hướng dẫn và giúp đỡ tận tình. Do thời gian thực tập và kiến thức còn hạn hẹp nên trong quá trình viết không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn ! Hà nội, ngày 2 tháng 4 năm 2005 Sinh viên Trần Thị Thu Hương CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và của sản phẩm xây lắp Đặc điểm của ngành XDCB Trong các ngành trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, xây dựng cơ bản là ngành sản xuất độc lập, mang tính chất công nghiệp, có chức năng tái sản xuất tài sản cố định, tạo nên cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân, tăng tiềm lực quốc phòng cho đất nước, không có một ngành nào trong nền kinh tế quốc dân có thể phát triển nếu không có xây dựng cơ bản. Ngành xây dựng cơ bản cũng có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật chung giống các ngành khác như: sản phẩm xây lắp được tiến hành một cách liên tục từ khâu thăm dò, điều tra khảo sát cho đến khâu thiết kế, thi công quyết toán và bàn giao công trình. Sản xuất xây lắp có tính dây truyền giữa các khâu của hoạt động sản xuất, các khâu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên ngành xây dựng cơ bản lại có những nét riêng so với các ngành sản xuất khác về kinh tế kỹ thuật sự khác biệt đó đã tác động rất nhiều đến công tác quản lý và hạch toán trong các doanh nghiệp xây lắp: Hoạt động xây lắp được tiến hành ngoài trời nên chịu ảnh hưởng rất nhiều của các yếu tố tự nhiên: nắng, mưa, bão.... nên đôi khi làm ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ thi công. Thời gian thi công thường dài nên vốn đầu tư thường rất dễ bị ứ đọng, dễ gặp rủi ro khi giá cả bị biến động làm ảnh hưởng tới dự toán và lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc thi công các công trình, hạng mục công trình thường tổ chức phân tán không cùng một địa điểm nên khó khăn cho việc quản lý. Do vậy mà hiện nay các doanh nghiệp xây lắp ở nước ta thường tổ chức sản xuất theo phương thức khoán công trình, hạng mục công trình, khối lượng công việc cho các đơn vị nội bộ doanh nghiệp Đặc điểm của sản phẩm xây lắp Ngành xây dựng cơ bản có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật riêng được thể hiện rõ ở sản xuất xây lắp và quá trình tạo ra sản phẩm của ngành. Sản phẩm xây lắp là những công trình, vật kiến trúc có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, quá trình từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng thường dài, phụ thuộc vào quy mô, tính chất phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công thường chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn thi công gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Do đó sản phẩm xây lắp nhât thiết phải được thiết kế và lập dự toán riêng nhằm mục đích theo dõi quá trình thi công và quản lý chi phí chặt chẽ. Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất do đó các điều kiện sản xuất: vật liệu, lao động, xe máy thi công .... phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm công trình. Do vậy công tác quản lý, sử dụng, hạch toán vật tư, tài sản cũng trở nên phức tạp. Sản phẩm xây lắp rất đa dạng nhưng mang tính chất đơn chiếc. Mỗi công trình được tiến hành thi công theo đơn đặt hàng cụ thể, phụ thuộc theo yêu cầu của khách hàng và theo thiết kế kỹ thuật của công trình đó. Khi thực hiện các đơn vị xây lắp phải bàn giao theo đúng tiến độ, đúng thiết kế kỹ thuật, đảm bảo chất lượng công trình. Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư từ khi ký hợp đồng, do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp thể hiện không rõ. Nếu quản lý chi phí tốt thì doanh nghiệp có thể giảm bớt chi phí và tăng lợi nhuận. Các đặc điểm trên đây của ngành xây dựng cơ bản cũng như của sản phẩm xây lắp có ảnh hưởng không nhỏ tới công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp khi thực hiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cần chú ý tới các đặc điểm trên để thực hiện tốt công tác này, đảm bảo phản ánh chính xác, trung thực những chi phí đã chi ra, tính đúng tính đủ chi phí vào giá thành, cung cấp thông tin trung thực cho các đối tượng sử dụng thông tin và giúp các nhà quản trị doanh nghiệp ra quyết định đúng đắn. Những vấn đề chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất Khái niệm, bản chất của chi phí sản xuất Sự phát sinh phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với quá trình sản xuất hàng hóa. Quá trình sản xuất hàng hóa là quá trình kết hợp của ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Trong đó tư liệu lao động và đối tượng lao động đóng vai trò lao động vật hóa còn sức lao động đóng vai trò lao động sống. Trong điều kiện quan hệ hàng hóa tiền tệ sự vận động và tiêu hao về lao động sống và lao động vật hóa đều được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ và được xác định là chi phí sản xuất mà doanh nghiệp phải chi ra để sản xuất sản phẩm. Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây lắp là một quá trình tác động có ý thức, có mục đích vào các yếu tố đầu vào để tạo thành các sản phẩm là các công trình, hạng mục công trình nhất định. Trong quá trình đó các doanh nghiệp xây lắp phải huy động và sử dụng các nguồn tài lực, vật lực (lao động, vật tư, tiền vốn....). Nói cách khác các doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản hao phí về lao động sống, lao động vật hóa phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Như vậy: chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa và các hao phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất thi công trong một thời kỳ nhất định. Khi xem xét bản chất của chi phí trong doanh nghiệp cần xác định rõ các mặt: Chi phí doanh nghiệp phải được đo lường và tính toán bằng tiền trong một khoảng thời gian xác định. Độ lớn của chi phí phụ thuộc vào hai nhân tố chủ yếu: khối lượng lao động, tư liệu sản xuất đã tiêu hao và sản xuất trong một thời kỳ nhất định; giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và tiền công của một đơn vị lao động đã hao phí. Trên góc độ nghiên cứu và quản lý khác nhau có các cách thể hiện, cách hiểu khác nhau về chi phí: Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp: chi phí sản xuất kinh doanh là tổng số tiền phải bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp. Đối với kế toán chi phí sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với một thời kỳ sản xuất kinh doanh nhất định và phải là chi phí thực. Theo chế độ kế toán hiện hành áp dụng cho các doanh nghiệp xây lắp theo quyết định số 1864/1998/QĐ/BTC ngày 16/12/1998 thì việc tổ chức kế toán ở các doanh nghiệp xây lắp, đơn vị nhận thầu phải đảm bảo yêu cầu của kế toán nói chung áp dụng cho các cơ sở sản xuất. Nên chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp bao gồm chi phí sản xuất xây lắp và chi phí sản xuất ngoài xây lắp: Chi phí sản xuất xây lắp là toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong lĩnh vực hoạt động xây lắp, nó là bộ phận cơ bản để hình thành giá thành sản phẩm xây lắp. Chi phí sản xuất xây lắp không bao gồm nhứng khoản chi phí không mang tính chất chi phí sản xuất như: chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí hoạt động tài chính và chi phí bất thường. Chi phí sản xuất ngoài xây lắp là toàn bộ chi phí phát sinh trong lĩnh vực sản xuất ngoài xây lắp như hoạt động công nghiệp phụ trợ... Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp Trong doanh nghiệp xây lắp, chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại, mỗi loại có tính chất, nội dung kinh tế và công dụng khác nhau. Tùy theo yêu cầu quản lý, đối tượng cung cấp thông tin, giác độ xem xét chi phí mà chi phí sản xuất có thể được phân loại theo các cách sau: Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế. Theo cách phân loại này các chi phí có cùng nội dung và tính chất kinh tế thì được xếp chung vào cùng một yếu tố không kể chi phí đó phát sinh ở đâu, dùng vào mục đích gì trong sản xuất sản phẩm, phục vụ quản lý hay sản xuất trực tiếp. Toàn bộ chi phí sản xuất của doanh nghiệp được chia thành các loại như sau: Chi phí nguyên vật liệu: gồm toàn bộ chi phí về các loại nguyên vật liệu chính ( như sắt, xi măng, cát...), nguyên vật liệu phụ, công cụ dụng cụ, phụ tùng thay thế, thiết bị xây dựng cơ bản mà doanh nghiệp đã sử dụng cho hoạt động sản xuất trong kỳ. Chi phí nhiên liệu động lực: Gồm các chi phí về nhiên liệu động lực như xăng, dầu diezen, khí ga, khí nén... Chi phí nhân công: Gồm tổng số tiền lương, phụ cấp và các khoản trích trên lương của người lao động theo quy định trong doanh nghiệp trong kỳ. Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ số tiền trích khấu hao về thiết bị vận tải, máy thi công xây dựng,... Chi phí dịch vụ mua ngoài: là toàn bộ số tiền doanh nghiệp đã chi trả cho các dịch vụ từ bên ngoài như: tiền điện, tiền nước, tiền thuê máy thi công.... Chi phí bằng tiền khác: Gồm toàn bộ số tiền phải trả khác cho hoạt động sản xuất thi công ngoài các yếu tố đã kể trên. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế như trên cho biết kết cấu, tỷ trọng từng loại chi phí, là cơ sở để phân tích đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng Căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí, toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ được chia thành các loại sau: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là toàn bộ các khoản chi phí về nguyên vật liệu chính ( xi măng, cát, đá, sắt, thép..), nguyên vật liệu phụ(sơn, vôi ), các cấu kiện, các bộ phận kết cấu công trình sử dụng trong quá trình sản xuất xây lắp. Nó gồm cả chi phí cốp pha, đà giáo,.. được sử dụng nhiều lần. Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp ... không tính vào chi phí nguyên vật liệu trực tiếp các khoản trích theo lương (BHXH,BHYT,KPCĐ) của công nhân trực tiếp xây lắp. Chi phí sử dụng máy thi công: là toàn bộ các khoản chi phí trực tiếp phát sinh trong quá trình sử dụng máy thi công để thực hiện khối lượng công việc xây lắp bằng máy theo phương thức thi công hỗn hợp vừa bằng máy vừa thủ công. Các khoản chi phí này gồm: + Chi phí vật liệu: dùng để chạy máy và sửa máy như chi phí xăng dầu diezen.. + Chi phí nhân công: liên quan đến các việc trả lương, các khoản phụ cấp theo lương... cho công nhân máy thi công. + chi phí dụng cụ sản xuất + Chi phí khấu hao máy thi công: là số tiền trích khấu hao cơ bản của máy thi công +Chi phí dịch vụ mua ngoài: là các chi phí về lao vụ, dịch vụ từ bên ngoài sử dụng cho máy thi công như: chi phí về điện máy chạy, chi phí nước, khí nén + Chi phí khác bằng tiền:là những chi phí ngoài các chi phí kể trên phục vụ cho máy thi công. Chi phí sản xuất chung: bao gồm các khoản chi phí dùng vào việc quản lý phục vụ sản xuất chung ở tổ, đội sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp: + Chi phí vật liệu: chi bảo dưỡng tài sản cố định, vật liệu văn phòng và những vật liệu dùng cho nhu cầu quản lý chung ở phân xưởng, tổ đội sản xuất. + Chi phí nhân công: gồm các khoản lương, tiền công phụ cấp của nhân viên quản lý ở tổ đội xây dựn, các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân máy thi côngvà nhân viên quản lý, thủ kho, công nhân vận chuyển. + Chi phí dụng cụ sản xuất: là những chi phí về công cụ dụng cụ dùng cho nhu cầu quản lý chung ở các tổ đội xây dựng như: khôn mẫu, dụng cụ bảo hộ lao động, ván khuôn, đà giáo.... + Chi phí khấu hao tài sản cố định: gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình, tài sản cố định thuê tài chính sử dụng ở các tổ đội xây dựng như: phương tiện vận tải, khấu hao nhà văn phòng... + Chi phí dịch vụ mua ngoài:là những chi phí về lao vụ dịch vụ từ bên ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất chung ở tổ đội xây dựng : chi phí điện nước, điện thoại, sửa chữa TSCĐ thuê ngoài. + Chi phí bằng tiền khác: là ngoài những chi phí nêu trên mà doanh nghiệp phải chi ra phục vụ cho hoạt động sản xuất chung ở các tổ đội xây dựng. Cách phân loại này có tác dụng phục vụ cho việc quản lý chi phí theo định mức, là cơ sở cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và xác định định mức chi phí sản xuất cho kỳ sau. Ngoài hai cách phân loại trên đây các doanh nghiệp xây lắp còn có thể phân loại theo: Phân loại theo mối quan hệ với đối tượng chi phí, chia chi phí làm hai loại: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Cách phân loại này giúp cho kế toán xác định được phương pháp thích hợp để tập hợp từng loại chi phí cho các đối tượng chịu chi phí một cách chính xác và khoa học, phục vụ cho công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Phân loại theo nội dung cấu thành chi phí, chia thành chi phí đơn nhất và chi phí tổng hợp. Cách phân loại này giúp cho các doanh nghiệp xây lắp có thể đành giá được vai trò của từng loại chi phí trong việc hình thành sản phẩm xây lắp để tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với từng loại chi phí. Phân loại chi phí theo nhiều tiêu thức khác nhau là công việc rất cần thiết, phục vụ cho nhiều mục đích quản lý, hạch toán và kiểm soát chi phí phát sinh dưới nhiều góc độ khác nhau. Do vậy tùy thuộc đặc điểm sản xuất, quy trình công nghệ và yêu cầu quản lý mà doanh nghiệp xây lắp nên lựa chọn cho mình những cách phân loại phù hợp và cần thiết. Giá thành và các loại giá thành sản phẩm xây lắp Khái niệm, bản chất của giá thành sản phẩm Trong hoạt động xây lắp để đánh giá được chất lượng, hiệu quả của việc quản lý và sử dụng chi phí doanh nghiệp thì cần phải xem xét chi phí sản xuất trong mối quan hệ chặt chẽ với kết quả của quá trình sản xuất thu được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí tính cho từng công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành đến giai đoạn quy ước hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao và được chấp nhận thanh toán. Trong doanh nghiệp XDCB , giá thành sản phẩm xây lắp mang tính chất cá biệt. Mỗi công trình, hạng mục công trình hay khối lượng công việc hoàn thành đến giai đoạn hoàn thành quy ước đều có một giá thành riêng. Giá thành là một trong những chỉ tiêu chất lượngquan trọng đánh giá chất lượng công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp. Giá thành sản phẩm có hai chức năng chu yếu: Chức năng thước đo bù đắp chi phí: là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra được bù đắp bằng số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm để hoàn thành một khối lượng công tác xây lắp. Căn cứ vào đơn giá bán trên thị trường, hoặc đơn giá theo giá đấu thầu và căn cứ vào giá thành đơn vị sản phẩm ta sẽ biết được doanh nghiệp có bù đắp được chi phí đã bỏ ra hay không. Chức năng lập giá: để bù đắp được chi phí đã bỉ ra khi xác định giá bán của sản phẩm phải căn cứ vào giá thành của nó. Phân loại giá thành sản phẩm Căn cứ theo số liệu để tính giá thành Giá thành dự toán Giá thành dự toán của công trình, hạng mục công trình là giá thành công tác xây lắp được xác định trên khối lượng công tác xây lắp theo thiết kế được duyệt, các dự toán và đơn giá thành xây dựng cơ bản do cấp có thẩm quyền ban hành và dựa theo mặt bằng giá cả thị trường. Giá thành thành dự toán là hạn mức kinh phí cao nhất mà doanh nghiệp có thể chi ra để đảm bảo có lãi. Nó là tiêu chuẩn để đơn vị xây lắp phấn đấu hạ thấp định mức thực tế, là căn cứ để kế hoạch hóa giá thành công tác xây lắp và đề ra các biện pháp tổ chức kinh tế kỹ thuật nhằm hoàn thiện nhiệm vụ hạ giá thành công tác xây lắp được giao. Giá trị dự toán của từng CT, HMCT Khối lượng dự toán xây lắp của từng CT, HMCT Đơn giá dự toán xây lắp của từng CT, HMCT Chi phí chung = * - - Giá thành dự toán của từng CT, HMCT Giá trị dự toán của từng CT, HMCT Thu nhập chịu thuế tính trước Thuế GTGT = - Trong đó: Thu nhập chịu thuế tính trước được tính theo tỷ lệ % trên giá thành xây lắp do nhà nước quy định với các mức khác nhau đối với từng loại hình xây lắp khác nhau và đối với từng sản phẩm xây lắp cụ thể. Trong điều kiện hiện nay để thi công một công trình xây dựng các doanh nghiệp thường phải tham gia đấu thầu. Do đó giá thành dự toán công tác xây lắp chia thành hai loại như sau: + Giá thành đấu thầu công tác xây lắp là loại giá thành do chủ đầu tư đưa ra để tự tổ chức xây lắp căn cứ vào đó để xây dựng giá thành dự thầu của mình. + Giá thành hợp đồng công tác xây lắp: là loại giá thành dự toán ghi trong hợp đồng ký kết giưa chủ đầu tư và tổ chức xây lắp sau khi đã thỏa thuận giao nhận thầu. Giá thành kế hoạch: là loại giá thành dự toán công tác xây lắp được căn cứ vào những điều kiện cụ thể của doanh nghiệp xây dựng cơ bản, của công trường trong một thời kỳ kế hoạch nhất định. Giá thành kế hoạch xây lắp được lập dựa vào định mức chi phí nội bộ của tổ chức xây lắp, về mặt nguyên tắc định mức chi phí nội bộ này phải tiên tiến hơn định mức dự toán. Vì vậy giá thành kế koạch công tác xây lắp phải bằng hoặc nhỏ hơn giá thành dự toán. Giá thành kế hoạch của CT, HMCT Giá thành dự toán của CT, HMCT Mức hạ giá thành kế hoạch = - Giá thành thực tế: Phản ánh toàn bộ các chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã bỏ ra để thực hiện khối lượng công tác xây lắp Giá thành thực tế bao gồm chi phí định mức, chi phí vượt định mức, chi phí không định mức như: mất mát, hao hụt vật tư, lãng phí vật tư tiền vốn trong quá trình sản xuất. Giá thành thực tế được xác định dựa trên cơ sở số liệu do kế toán cung cấp, về nguyên tắc giá thành thực tế < giá thành kế hoạch. Mối quan hệ
Tài liệu liên quan