Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, ngành xây dựng cơ bản đã không ngừng phát triển và lớn mạnh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đã được gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì công tác xây dựng cơ bản càng giữ một vị trí vô cùng quan trọng vì nó tạo ra “ bộ xương sống” cho nền kinh tế, nó chi phối tới hầu hết các ngành kinh tế khác. Xây dựng có bản là lĩnh vực có những đặc thù rất riêng, có tỷ lệ thất thoát vốn đầu tư khá cao. Chính vì vậy đòi hỏi phải có cơ chế quản lý và cơ chế tài chính chặt chẽ cả ở tầm vi mô và tầm vĩ mô đối với công tác xây dựng cơ bản.
Trong điều kiện hiện nay, các quy luật của nền kinh tế thị trường hoạt động mạnh mẽ đặc biệt là quy luật cạnh tranh khiến các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để đứng vững và khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Tối đa hoá lợi nhuận luôn là mục tiêu của các doanh nghiệp. Muốn thực hiện được mục tiêu đó, doanh nghiệp phải khẳng định được chất lượng và giá cả sản phẩm của mình. Sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành hạ trở thành mục tiêu trực tiếp để doanh nghiệp có thể đạt được các mục tiêu xa hơn. Vì vậy, quản lý chi phí sao cho hiệu quả trở thành yêu cầu then chốt trong các đơn vị. Để tăng cường quản lý chi phí trong xây dựng cơ bản, các doanh nghiệp đã sử dụng nhiều phương pháp, công cụ quản lý khác nhau. Một trong những công cụ được nhà quản lý quan tâm hàng đầu là công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Doanh nghiệp cần tổ chức hạch toán chi phí sản xuất hiệu quả và tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm xây lắp.
108 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Công ty TNHH đầu tư và xây dựng Thanh Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
Điểm:
Bằng số:
Bằng chữ:
Hà nội, ngày tháng 3 năm 2010
Mục lục
Lời nói đầu
Ch¬ng 1: Những lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp 8
1.1 Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và vai trò, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp 8
1.2 Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất 8
1.3 Gíá thành sản xuất và phân loại giá thành sản xuất 8
1.4 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp 8
1.5 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp 9
1.5.1 Đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp 9
1.5.2 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất 12
1.5.3 Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ 14
1.5.4 Kỳ tính giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp 14
1.5.5 Hệ thống sổ trong điều kiện áp dụng kế toán máy 14
Chương 2: Thực trạng tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp tại công ty TNHH đầu tư và xây dựng Thanh Sơn 16
2.1 Đặc điểm tình hình chung của công ty TNHH đầu tư và xây dựng Thanh Sơn 19
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty 20
2.1.2 Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty 20
2.1.3 Đặc điểm tổ chức quản lí kinh doanh nói chung của công ty 21
2.1.4 Tình hình tổ chức thực hiện công tác kế toán của công ty 24
2.2 Tình hình thực tế về kế toán chi phí sản xuât tại công ty 26
2.2.1 Đối tượng và phân loại kế toán tập hợp chi phí sản xuất tại công ty 29
2.2.2 Trình tự kế toán tập hợp chi phí sản xuât tại công ty 32
2.3 Công tác tính giá thành sản phẩm tại công ty 34
2.3.1.Đối tượng tính giá thành và kỳ tính giá thành sản phẩm 46
2.3.2 Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ tại công ty 48
2.3.3 Phương pháp tính giá thành sản phẩm 52
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp tại công ty TNHH đầu tư và xây dựng Thanh Sơn 52
3.1 Đánh giá thực trạng tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp 52
3.1.1 Những ưu điểm 55
3.1.2 Những hạn chế 56
3.2 Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp tại công ty TNHH đầu tư và xây dựng Thanh Sơn 59
Kết luận 60
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, ngành xây dựng cơ bản đã không ngừng phát triển và lớn mạnh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đã được gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì công tác xây dựng cơ bản càng giữ một vị trí vô cùng quan trọng vì nó tạo ra “ bộ xương sống” cho nền kinh tế, nó chi phối tới hầu hết các ngành kinh tế khác. Xây dựng có bản là lĩnh vực có những đặc thù rất riêng, có tỷ lệ thất thoát vốn đầu tư khá cao. Chính vì vậy đòi hỏi phải có cơ chế quản lý và cơ chế tài chính chặt chẽ cả ở tầm vi mô và tầm vĩ mô đối với công tác xây dựng cơ bản.
Trong điều kiện hiện nay, các quy luật của nền kinh tế thị trường hoạt động mạnh mẽ đặc biệt là quy luật cạnh tranh khiến các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để đứng vững và khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Tối đa hoá lợi nhuận luôn là mục tiêu của các doanh nghiệp. Muốn thực hiện được mục tiêu đó, doanh nghiệp phải khẳng định được chất lượng và giá cả sản phẩm của mình. Sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành hạ trở thành mục tiêu trực tiếp để doanh nghiệp có thể đạt được các mục tiêu xa hơn. Vì vậy, quản lý chi phí sao cho hiệu quả trở thành yêu cầu then chốt trong các đơn vị. Để tăng cường quản lý chi phí trong xây dựng cơ bản, các doanh nghiệp đã sử dụng nhiều phương pháp, công cụ quản lý khác nhau. Một trong những công cụ được nhà quản lý quan tâm hàng đầu là công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Doanh nghiệp cần tổ chức hạch toán chi phí sản xuất hiệu quả và tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm xây lắp.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, sau một thời gian thực tập tại công ty TNHH đầu tư và xây dựng Thanh Sơn, được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Đặng Thu Hà, các cô, chú, trong công ty, em đã lựa chọn đề tài: Tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Công ty TNHH đầu tư và xây dựng Thanh Sơn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chuyên đề gồm 3 phần :
Chương I : Những lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
Chương II:Tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty
Chương III: Phương hướng hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP CỦA NGÀNH XÂY DỰNG CƠ BẢN
Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và vai trò, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân, của quỹ tích luỹ cùng với vốn đầu tư của nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. So với các ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản có những đặc điểm về kinh tế-kỹ thuật riêng biệt, thể hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra sản phẩm của ngành. Điều này đã chi phối đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc…có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài…Do đó, việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp phải lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công). Quá trình sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công trình xây lắp.
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, người lao động…) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư hỏng…
Sản phẩm xây lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Thời gian thi công thường dài nên vốn đầu tư thường rất dễ bị ứ đọng, dễ gặp rủi ro khi giá cả bị biến động làm ảnh hưởng tới dự toán và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường như nắng, mưa, lũ lụt…Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán.
Những đặc điểm trên đã ảnh hưởng rất lớn đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Công tác kế toán vừa phải đáp ứng yêu cầu chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán của một doanh nghiệp sản xuất vừa phải đảm bảo phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp xây lắp. Từ đó đảm bảo phản ánh chính xác, trung thực những chi phí đã chi ra, tính đúng, tính đủ chi phí vào giá thành, cung cấp thông tin trung thực cho các đối tượng sử dụng thông tin và giúp các nhà quản trị doanh nghiệp ra quyết định đúng đắn.
Với chức năng là ghi chép, tính toán, phản ánh và giám đốc thường xuyên liên tục sự biến động của vật tư, tài sản, tiền vốn, kế toán sử dụng thước đo hiện vật và thước đo giá trị để quản lý chi phí. Thông qua số liệu do kế toán tập hợp chi phí, tính giá thành, người quản lý doanh nghiệp biết được chi phí và giá thành thực tế của từng công trình, hạng mục công trình của quá trình sản xuất kinh doanh. Qua đó, nhà quản trị có thể phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản phẩm, tình hình sử dụng lao động, vật tư, vốn là tiết kiệm hay lãng phí để từ đó có biện pháp hạ giá thành, đưa ra những quyết định phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hạ giá thành sản phẩm mà vẫn đảm bảo chất lượng là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường.
Việc phân tích đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể dựa trên giá thành sản phẩm chính xác. Về phần giá thành thì giá thành lại chịu ảnh hưởng của kết quả tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp. Do vậy, tổ chức tốt công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp để xác định nội dung, phạm vi chi phí cấu thành trong giá thành cũng như lượng giá trị các yếu tố chi phí đã dịch chuyển vào sản phẩm hoàn thành là yêu cầu rất cần thiết đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xây lắp nói riêng.
Tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm là tiền đề để xác định kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được chủ động hoạt động sản xuất kinh doanh theo phương hướng riêng và phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.
Để có thể cạnh tranh được trên thị trường, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp còn phải thực hiện đúng theo những quy luật khách quan. Như vậy, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp là phần không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp xây lắp khi thực hiện chế độ kế toán, hơn nữa là nó có ý nghĩa to lớn và chi phối chất lượng công tác kế toán trong toàn doanh nghiệp.
Do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản và của sản phẩm xây dựng nên việc quản lý về đầu tư xây dựng rất khó khăn phức tạp, trong đó tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm là một trong những mối quan tâm hàng đầu, là nhiệm vụ hết sức quan trọng của doanh nghiệp. Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng cơ chế đấu thầu, giao nhận thầu xây dựng. Vì vậy, để trúng thầu, được nhận thầu thi công thì doanh nghiệp phải xây dựng được giá thầu hợp lý, dựa trên cơ sở đã định mức đơn giá xây dựng cơ bản do Nhà nước ban hành, trên cơ sở giá thị trường và khả năng của bản thân doanh nghiệp. Mặt khác, phải đảm bảo kinh doanh có lãi. Để thực hiện các yêu cầu đòi hỏi trên thì cần phải tăng cường công tác quản lý kinh tế nói chung, quản lý chi phí giá thành nói riêng, trong đó trọng tâm là công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành đảm bảo phát huy tối đa tác dụng của công cụ kế toán đối với quản lý sản xuất.
Trước yêu cầu đó, nhiệm vụ chủ yếu đặt ra cho kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp là:
- Phản ánh đầy đủ, kịp thời toàn bộ chi phí sản xuất thực tế phát sinh. - Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí vật tư, chi phí nhân công, chi phí sử dụng máy thi công và các chi phí dự toán khác, phát hiện kịp thời các khoản chênh lệch so với định mức, các chi phí khác ngoài kế hoạch, các khoản thiệt hại, mất mát, hư hỏng…trong sản xuất để đề xuất những biện pháp ngăn chặn kịp thời.
- Tính toán hợp lý giá thành công tác xây lắp, các sản phẩm lao vụ hoàn thành của doanh nghiệp.
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp theo từng công trình, hạng mục công trình từng loại sản phẩm lao vụ, vạch ra khả năng và các biện pháp hạ giá thành một cách hợp lý và có hiệu quả.
- Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng công tác xây dựng đã hoàn thành. Định kỳ kiểm kê và đánh giá khối lượng thi công dở dang theo nguyên tắc quy định.
- Đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở từng công trình, hạng mục công trình, từng bộ phận thi công, tổ đội sản xuất…trong từng thời kỳ nhất định, kịp thời lập báo cáo về chi phí sản xuất, tính giá thành công trình xây lắp, cung cấp chính xác kịp thời các thông tin hữu dụng về chi phí sản xuất và giá thành phục vụ cho yêu cầu quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp.
1.2 Chi phí sản xuất và phân lọai chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp bỏ ra trong một kỳ kinh doanh nhất định. Chi phí về lao động sống là những chi phí về tiền lương, thưởng, phụ cấp và các khoản trích theo lương của người lao động. Chi phí lao động vật hóa là những chi phí về sử dụng các yếu tố tư liệu lao động, đối tượng lao động dưới các hình thái vật chất, phi vật chất, tài chính và phi tài chính.
Chi phí sản xuất xây lắp không bao gồm nhứng khoản chi phí không mang tính chất chi phí sản xuất như: chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí hoạt động tài chính và chi phí bất thường.
Việc quản lý chi phí sản xuất không chỉ đơn thuần là quản lý số liệu phản ánh tổng hợp chi phí mà phải dựa trên cả các yếu tố chi phí riêng biệt để phân tích toàn bộ chi phí sản xuất của từng công trình, hạng mục công trình hay theo nơi phát sinh chi phí. Dưới các góc độ xem xét khác nhau, theo những tiêu chí khác nhau thì chi phí sản xuất cũng được phân loại theo các cách khác nhau để đáp ứng yêu cầu thực tế của quản lý và hạch toán.
Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩmCăn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng chung của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm bao gồm các khoản mục chi phí sau.
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm giá trị thực tế của nguyên liệu, vật liệu chính, phụ hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành thực thể sản phẩm xây lắp và giúp cho việc thực hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp (không kể vật liệu cho máy móc thi công và hoạt động sản xuất chung).
- Chi phí nhân công trực tiếp: gồm toàn bộ tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương trả cho công nhân trực tiếp xây lắp.
- Chi phí sử dụng máy thi công: bao gồm chi phí cho các máy thi công nhằm thực hiện khối lượng xây lắp bằng máy. Máy móc thi công là loại máy trực tiếp phục vụ xây lắp công trình. Đó là những máy móc chuyển động bằng động cơ hơi nước, diezen, xăng, điện,...
Chi phí sử dụng máy thi công gồm chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời.
- Chi phí thường xuyên cho hoạt động của máy thi công gồm: lương chính, phụ của công nhân điều khiển, phục vụ máy thi công. Chi phí nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài (sửa chữa nhỏ, điện, nước, bảo hiểm xe, máy ) và các chi phí khác bằng tiền.
-Chi phí tạm thời: chi phí sửa chữa lớn máy thi công (đại tu, trung tu...), chi phí công trình tạm thời cho máy thi công (lều, lán, bệ, đường ray chạy máy....). Chi phí tạm thời của máy có thể phát sinh trước (hạch toán trên TK 142, 242) sau đó phân bổ dần vào TK 623. Hoặc phát sinh sau nhưng phải tính trước vào chi phí sử dụng máy thi công trong kỳ (do liên quan đến việc sử dụng thực tế máy móc thi công trong kỳ). Trường hợp này phải tiến hành trích trước chi phí (hạch toán trên TK 335)
- Chi phí sản xuất chung: phản ánh chi phí sản xuất của đội, công trường xây dựng bao gồm: lương nhân viên quản lý đội, công trường, các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định (19 %) trên tiền lương của công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân điều khiển xe, máy thi công và nhân viên quản lý đội, khấu hao TSCĐ dùng chung cho hoạt động của đội và những chi phí khác liên quan đến hoạt động của đội.
- Chi phí bán hàng: gồm toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa dịch vụ trong kỳ
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến quản trị kinh doanh và quản trị hành chính trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà không tách được cho bất cứ hoạt động hay phân xưởng, công trường nào.
Phân loại chi phí theo yếu tố chi phí
Để phục vụ cho việc tập hợp và quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu thống nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh, chi phí được phân theo yếu tố. Cách phân loại này giúp cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán chi phí. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia thành các yếu tố:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu, phục tùng thay thế, công cụ dụng cụ...sử dụng trong sản xuất kinh doanh.
- Chi phí nhiên liệu, động lực: sử dụng vào quá trình sản xuất
-Chi phí nhân công: tiền lương và các khoản phụ cấp theo lương phải trả cho công nhân viên chức.
-Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ: trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp phải trả cho cán bộ công nhân viên.
-Chi phí khấu hao TSCĐ: tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng trong sản xuất kinh doanh.
-Chi phí dịch vụ mua ngoài: toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng cho sản xuất kinh doanh.
- Chi phí bằng tiền khác: toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo cách này, doanh nghiệp xác định được kết cấu tỷ trọng của từng loại chi phí trong tổng chi phí sản xuất để lập thuyết minh báo cáo tài chính đồng thời phục vụ cho nhu cầu của công tác quản trị trong doanh nghiệp, làm cơ sở để lập mức dự toán cho kỳ sau.
Phân loại chi phí theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm lao vụ hoànthànhTheo cách này, chi phí được phân loại theo cách ứng xử của chi phí hay là xem xét sự biến động của chi phí khi mức độ hoạt động thay đổi. Chi phí được phân thành 3 loại:
-Biến phí: là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với khối lượng công việc hoàn thành, thường bao gồm: chí phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí bao bì, ….Biến phí trên một đơn vị sản phẩm luôn là một mức ổn định.
- Định phí: là những khoản chi phí cố định khi khối lượng công việc hoàn thành thay đổi. Tuy nhiên, nếu tính trên một đơn vị sản phẩm thì định phí lại biến đổi. Định phí thường bao gồm: chí phí khấu hao TSCĐ sử dụng chung, tiền lương nhân viên, cán bộ quản lý, ….
-Hỗn hợp phí: là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố biến phí và định phí. Ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện các đặc điểm của định phí, quá mức đó nó lại thể hiện đặc tính của biến phí. Hỗn hợp phí thường gồm: chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp...
Cách phân loại trên giúp doanh nghiệp có cơ sở để lập kế hoạch, kiểm tra chi phí, xác định điểm hòa vốn, phân tích tình hình tiết kiệm chi phí, tìm ra phương hướng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Phân loại chi phí theo cách thức kết chuyển chi phí
Theo cách thức kết chuyển, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
- Chi phí sản phẩm : là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua về.
-Chi phí thời kỳ: là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ hoặc được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi nhuận của thời kỳ mà chúng phát sinh.
1.3 Gi¸ thµnh s¶n xuÊt vµ ph©n lo¹i gi¸ thµnh s¶n xuÊt trong doanh nghiÖp x©y l¾p
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa phát sinh trong quá trình sản xuất có liên quan tới khối lượng xây lắp đã hoàn thành. Giá thành sản xuất sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hóa, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hóa đã thực sự chi ra cho sản xuất. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống.
Chỉ tiêu giá thành nếu được xác định một cách chính xác, trung thực có thể giúp cho các doanh nghiệp cũng như Nhà nước có cơ sở để xem xét, đánh giá thực trạng