Đất nước Việt Nam đang trên con đường đổi mới phát triển và đi lên, chúng ta đã dần dần khẳng định vị trí của mình trên nhiều lĩnh vực, kinh tế, xã hội, chính trị và văn hoá. Bây giờ mỗi khi nhắc đến Việt Nam bạn bè quốc tế sẽ không chỉ nhắc đến một Việt Nam kiên cường trong chiến tranh mà họ đã còn biết thêm rằng chúng ta có một nền chính trị ổn định, kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng văn minh. Để có được những thành tựu đó chúng ta đã và đang phải rất cố gắng trong công cuộc xây dựng đất nước. Đồng thời nhờ có chính sách đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế toàn cầu và sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà Nước mà bộ mặt đất nước ta đang thay đổi từng ngày từng giờ. Xây dựng cơ bản là một hoạt động mang tính chất tiền đề để tạo nên cơ sở vật chất cho quá trình tái sản xuất sản phẩm cho xã hội, hay nó tạo ra tài sản cố định quyết định đến sức mạnh của nền kinh tế và sức cạnh tranh của nền kinh tế đó. Cùng với xây dựng cơ bản, lĩnh vực Bưu Chính Viễn Thông phát triển trên nền tảng tiến bộ của xã hội.Trong những năm gần đây, các hệ thống thông tin được phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, đáp ứng được phần nào sự bùng nổ thông tin trên toàn thế giới. Nó đã đem lại rất nhiều tiện ích cho con người và chúng ta đang từng ngày thấy được sự ảnh hưởng của nó đến từng người, từng lĩnh vực và trong từng thời điểm.Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng quốc tế đó, các công trình viễn thông đang được xây dựng rộng rãi trải rộng từ Nam ra Bắc.
Lĩnh vực XDCB được coi là một ngành kinh doanh đặc thù vì vậy trong một thời gian phát triển nhu cầu có 1 chế độ kế toán phù hợp với những đặc điểm riêng của ngành. Xuất phát từ nhu cầu cấp bách đó ngày 16/12/1998 Bộ Tài Chính đã cho ban hành chế độ kế toán trong doanh nghiệp XDCB theo QĐ 1864/QĐ/CĐKT ban hành “Hệ thống kế toán doanh nghiệp xây lắp” áp dụng cho doanh nghiệp xây lắp từ 01/01/1999. Chính quyết định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện công tác kế toán ở doanh nghiệp xây lắp.
73 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam đang trên con đường đổi mới phát triển và đi lên, chúng ta đã dần dần khẳng định vị trí của mình trên nhiều lĩnh vực, kinh tế, xã hội, chính trị và văn hoá. Bây giờ mỗi khi nhắc đến Việt Nam bạn bè quốc tế sẽ không chỉ nhắc đến một Việt Nam kiên cường trong chiến tranh mà họ đã còn biết thêm rằng chúng ta có một nền chính trị ổn định, kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng văn minh. Để có được những thành tựu đó chúng ta đã và đang phải rất cố gắng trong công cuộc xây dựng đất nước. Đồng thời nhờ có chính sách đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế toàn cầu và sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà Nước mà bộ mặt đất nước ta đang thay đổi từng ngày từng giờ. Xây dựng cơ bản là một hoạt động mang tính chất tiền đề để tạo nên cơ sở vật chất cho quá trình tái sản xuất sản phẩm cho xã hội, hay nó tạo ra tài sản cố định quyết định đến sức mạnh của nền kinh tế và sức cạnh tranh của nền kinh tế đó. Cùng với xây dựng cơ bản, lĩnh vực Bưu Chính Viễn Thông phát triển trên nền tảng tiến bộ của xã hội.Trong những năm gần đây, các hệ thống thông tin được phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, đáp ứng được phần nào sự bùng nổ thông tin trên toàn thế giới. Nó đã đem lại rất nhiều tiện ích cho con người và chúng ta đang từng ngày thấy được sự ảnh hưởng của nó đến từng người, từng lĩnh vực và trong từng thời điểm.Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng quốc tế đó, các công trình viễn thông đang được xây dựng rộng rãi trải rộng từ Nam ra Bắc.
Lĩnh vực XDCB được coi là một ngành kinh doanh đặc thù vì vậy trong một thời gian phát triển nhu cầu có 1 chế độ kế toán phù hợp với những đặc điểm riêng của ngành. Xuất phát từ nhu cầu cấp bách đó ngày 16/12/1998 Bộ Tài Chính đã cho ban hành chế độ kế toán trong doanh nghiệp XDCB theo QĐ 1864/QĐ/CĐKT ban hành “Hệ thống kế toán doanh nghiệp xây lắp” áp dụng cho doanh nghiệp xây lắp từ 01/01/1999. Chính quyết định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện công tác kế toán ở doanh nghiệp xây lắp.
Trong bất kỳ doanh nghiệp nào kế toán luôn là công cụ quản lý hữu hiệu nhất, đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin quản trị cho doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất thì kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một trong những phần hành kế toán quan trọng nhất trong hệ thống kế toán ở doanh nghiệp.Cũng giống như các ngành sản xuất khác, khi sản xuất, doanh nghiệp xây lắp cần biết các hao phí vật chất mà doanh nghiệp đã bỏ vào quá trình sản xuất và kết tinh vào công trình là bao nhiêu. Do vậy, việc xác định giá thành sản phẩm xây lắp một cách kịp thời, chính xác, đầy đủ có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong công tác quản lý hiệu quả đồng thời đảm bảo chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp. Hơn thế nữa, nó còn góp phần tích cực vào việc sử dụng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải hướng tới hai mục tiêu hàng đầu:lợi nhuận và vị thế. Để đạt được điều này, doanh nghiệp luôn phải tìm biện pháp hạ giá thành sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Thêm vào đó để tính giá thành một cách chính xác, doanh nghiệp cần phải hiểu rõ chi phí sản xuất và tìm cách tiết kiệm chi phí. Xuất phát từ ý nghĩa thiết thực của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm mà sau một thời gian thực tập tại công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện với mong muốn tìm hiều về tình hình thực tế và làm nền tảng cho công việc của em sau này, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Trong luận văn tốt nghiệp của mình em xin trình bày thành 3 chương như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp xây lắp.
Chương II: Tình hình thực tế và công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện.
Chương III: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện.
Trong khoảng thời gian gần 2 tháng qua, mặc dù đã được các cô, chú, anh, chị tại phòng tài chính kế toán của công ty tạo điều kiện trong việc tìm hiểu và học hỏi về hoạt động công ty cùng với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo hướng dẫn nhưng thời gian thực tập có hạn nên điều kiện đi sâu tìm hiểu về đề tài còn nhiều hạn chế. Hơn thế nữa do trình độ còn chưa đầy đủ và sâu sắc, nên dù đã rất cố gắng luận văn tốt nghiệp của em vẫn không tránh khỏi một số thiếu sót nhất định.
Em hi vọng nhận được sự chỉ bảo của thầy cô và bạn bè, để em có thể nâng cao hiều biết hơn và có thể vận dụng những kiến thức đó vào công việc trong tương lai.
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, trước tiên em xin chân thành cảm ơn Quý thầy cô Học Viện Tài Chính, khoa Kế Toán đã tận tình giảng dạy, trang bị cho em kiến thức trong suốt quá trình học tập tại trường từ năm 1999 đến năm 2003
Em xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới cô giáo Thạc sĩ Nghiêm Thị Thà đã hướng dẫn cho em chọn đề tài và truyền đạt cho em những kiến thức quý báu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn các cán bộ nhân viên Công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện Hà Nội, đặc biệt là cán bộ phòng tài chính kế toán của công ty đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Hà nội, ngày tháng năm
Sinh viên thực hiện
TRẦN THU QUYÊN
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP.
1.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TỔ CHỨC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở DOANH NGHIỆP XÂY LẮP.
1.1.1. Đặc điểm của ngành Xây dựng cơ bản ảnh hưởng đến công tác tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất có tính chất công nghiệp nhằm tái sản xuất TSCĐ cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, tăng nội lực cho nền kinh tế của đất nước.
Ngày nay, công tác xây dựng cơ bản không ngừng phát triển cả về chiều rộng và lẫn chiều sâu, mà các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản là doanh nghiệp có nguồn vốn lớn và tương đối ổn định. Thế nhưng trong cơ chế thị trường, khi mà Nhà nước chỉ thực hiện giao quyền sử dụng vốn còn trách nhiệm bảo toàn, phát triển vốn có hiệu quả đó là trách nhiệm của các doanh nghiệp. Qua cơ chế mới này, các doanh nghiệp phải chủ động trong việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức huy động vốn và tổ chức hạch toán phù hợp với yêu cầu quản lý, kiểm tra của Nhà nước. Đây là khó khăn với hầu hết các doanh nghiệp và đặc biệt là các doanh nghiệp xây lắp vì như vậy họ phải đối mặt với việc thiếu vốn hoạt động và phải tự tìm kiếm các công trình khi mà ngân sách và vốn cấp trên rót xuống chỉ có hạn. Biện pháp giải quyết khó khăn này đó là các doanh nghiệp Nhà nước quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp.
Doanh nghiệp xây lắp là doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất vật chất mang tính chất công nghiệp nhưng đó là một ngành sản xuất công nghiệp đặc biệt. Sản phẩm xây dựng cơ bản cũng được tiến hành sản xuất một cách liên tục, từ khâu thăm dò, điều tra khảo sát đến thiết kế thi công và quyết toán công trình khi hoàn thành. Sản xuất xây dựng cơ bản cũng có tính dây chuyền, giữa các khau của hoạt động sản xuất có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nếu một khâu ngừng trệ sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các khâu khác. Chính vì có những đặc điểm riêng mà nó ảnh hưởng đến việc tổ chức, quản lý và hạch toán, đặc biệt đối với kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Ta có thể thấy những đặc điểm khác với các ngành công nghiệp khác đó là:
- Sản phẩm xây lắp không có sản phẩm nào giống sản phẩm nào, mỗi sản phẩm có yêu cầu về mặt thiết kế mỹ thuật, kết cấu, hình thức, địa điểm xây dựng khác nhau. Do vậy, mỗi sản phẩm xây lắp đều có yêu cầu tổ chức quản lý, tổ chức thi công và biện pháp thi công phù hợp với đặc điểm của từng công trình cụ thể, có như vậy việc sản xuất thi công mới mang lại hiệu quả cao và bảo đảm cho sản xuất được liên tục.
Do sản phẩm xây lắp có tính đơn chiếc và được sản xuất theo đơn đặt hàng nên chi phí bỏ vào sản xuất thi công cũng hoàn toàn khác nhau giữa các công trình,kể cả khi công trình thi công theo thiết kế mẫu nhưng được xây dựng ở những địa điểm khác nhau. Vì thế tập hợp các chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm cũng được tính cho từng sản phẩm xây lắp riêng biệt.Thông thường, đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành là các công trình, hạng mục công trình .
- Sản phẩm xây lắp thường có qui mô lớn cả về kích thước lẫn tiền vốn, thời gian thi công rất dài, có công trình phải xây dựng hàng chục năm mới xong. Trong thời gian thi công chưa tạo ra sản phẩm nhưng lại sử dụng nhiều vật tư tiền vốn. Do đó, khi lập kế hoạch xây dựng cơ bản cần cân nhắc, thận trọng theo dõi chặt chẽ quá trình thi công, đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm, bảo đảm chất lượng công trình. Do thời gian thi công dài các doanh nghiệp xây lắp và chủ đầu tư không thể chờ đến khi xây dựng xong mới tính toán và thanh toán. Chính vì thế,căn cứ vào dự toán, tiến độ thi công và biên bản bàn giao khối lượng xây lắp hoàn thành, bên A (chủ đằu tư) sẽ thanh toán cho bên B (bên nhận thi công).
Các công trình xây lắp thường có thời gian sử dụng dài nên mọi sai lầm trong quá trình thi công thường khó sửa chữa phải phá đi làm lại. Sai lầm trong XDCB vừa gây lãng phí vừa để lại hậu quả có khi rất nghiêm trọng, lâu dài và khó khắc phục. Do đặc điểm này mà trong quá trình thi công cần phải thường xuyên kiểm tra giám sát chất lượng công trình, tránh phát sinh thêm chi phí ngoài dự toán.
- Sản phẩm xây lắp được sử dụng tại chỗ, địa điểm xây dựng luôn thay đổi theo địa bàn thi công. Nó chịu tác động của nơi xây dựng công trình về các mặt như giá vật liệu tại chân công trình, giá nhân công,... Mặt khác việc xây dựng còn chịu tác động của địa chất, thuỷ văn, kết hợp với các yêu cầu về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Khi công trình hoàn thành, điều đó có nghĩa người công nhân sẽ không còn việc gì ở đó nữa, phải chuyển đến thi công ở một công trình khác. Do đó sẽ phát sinh các chi phí như điều động công nhân, máy móc thi công, chi phí xây dựng tạm thời cho công nhân và cho máy móc thi công. Đặc điểm này khiến cho các đơn vị xây lắp thường sử dụng lực lượng lao động thuê ngoài tại chỗ nơi thi công công trình để giảm bớt các chi phí khi di dời.
- Sản phẩm của ngành xây lắp hoàn thành không nhập kho mà thường được tiêu thụ trước khi tiến hành sản xuất theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư. Do đó tính chất hành hoá của sản phẩm thể hiện không rõ. Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị bản thân thiết bị do chủ đầu tư đưa vào để lắp đặt mà chỉ bao gồm những chi phí do doanh nghiệp xây lắp bỏ ra có liên quan đến xây lắp công trình. Bao gồm giá trị vật kết cấu, giá trị thiết bị: ống nhựa, ống sắt, xi măng,sắt, thép, nắp đan, cột,...
Trong nền kinh tế thị trường,lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phương pháp đấu thầu và đây thực sự là vấn đề cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp. Vì vậy, để trúng thầu các doanh nghiệp xây lắp phải xây dựng được giá tham gia đấu thầu vừa hợp lý trên cơ sở các định mức, đơn giá xây dựng cơ bản do Nhà nước ban hành, vừa phải xem xét đến giá mang tính cạnh tranh dựa trên cơ sở giá cả thị trường và khả năng của doanh nghiệp về tổ chức quản lý, tiến độ thi công. Đặc biệt là việc phấn đấu hạ chi phí đảm bảo việc nếu nhận thi công công trình phải có lãi. Chính vì cạnh tranh quá mạnh mẽ như thế, khiến cho một số doanh nghiệp xây lắp đã xây dựng giá nhận thầu thấp, để thắng thầu hoặc là cắt bớt chi phí trong quá trình thi công. Đây thực sự là một biểu hiện sai trái mà các cấp, các ngành, các đơn vị chủ đầu tư và các doanh nghiệp xây lắp cần phải lựa chọn kỹ các đơn vị đấu thầu, và kiểm tra giám sát chặt chẽ trong quá trình thi công.
Qua các đặc điểm trên đòi hỏi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp xây lắp phải tổ chức quản lý chặt chẽ các yếu tố đầu vào đồng thời phải tổ chức công tác kế toán phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản lý. Đặc biệt đối với công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải tính đúng, tính đủ chi phí, phải xác đinh chính xác giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành, từ đó cung cấp thông tin tài liệu cần thiết để phân tích tình hình thực hiện dự toán giá thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu quản lý và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Yêu cầu quản lý, vai trò và nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
1.1.2.1. Yêu cầu quản lý và vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Sự ra đời và quá trình phát triển của kế toán gắn liền với sự ra đời và phát triển sản xuất của cải vật chất của xã hội. Nền sản xuất của xã hội càng phát triển thì kế toán càng trở nên quan trọng. Với chức năng thu thập, xử lý, cung cấp thông tin về tình hình tài sản, tình hình hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp, kế toán trở thành công cụ quản lý kinh tế hữu hiệu. Trong nền kinh tế thị trường, kế toán được coi như “nghệ thuật ghi chép, phân loại và tổng hợp” (theo khái niệm về kế toán của Liên đoàn kế toán quốc tế), hay “kế toán là ngôn ngữ của việc kinh doanh” (theo Giáo sư, tiến sĩ Robert Anthony - Đại học Harvard). Kế toán là công cụ hạch toán chính xác các chi phí sản xuất thông qua tổ chức ghi chép, tính toán, phản ánh và giám đốc thường xuyên liên tục chi phí đã chi ra cho quá trình sản xuất. Trong khi đó chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý quan tâm, vì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì thế mà kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vị trí quan trọng, đóng vai trò trung gian trong toàn bộ công tác kế toán doanh nghiệp, và có ý nghĩa quyết định trong việc quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Nhờ kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể nhanh chóng, kịp thời, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, các chủ doanh nghiệp có thể nắm được tình hình thực hiện các định mức về chi phí vật tư, lao động tiền vốn ở từng đơn vị, từng công trình và từ đó có thể thực hiện công tác quản lý việc hoàn thành nhiệm vụ hạ giá thành, đồng thời có thông tin để đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến nhiệm vụ hạ giá thành sản phẩm. Đây là những thông tin hết sức quan trọngđối với công tác chỉ đạo và phân tích đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời trên cơ sở đó khai thác thế mạnh, tiềm năng để khắc phục những mặt yếu kém, nâng cao năng suất lao động, hạ bớt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Chính vì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm luôn là các chỉ tiêu kinh tế quan trọng, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh được các nhà quản lý hết sức quan tâm, nên công tác tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm luôn là nội dung cơ bản, trọng tâm của toàn bộ tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp và nó giữ những vai trò rất quan trọng:
- Kế toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm cung cấp thông tin về tình hình chi phí sản xuất kinh doanh, giá thành sản phẩm giúp các nhà quản lý kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ và kiểm soát việc sử dụng chi phí nhằm nâng cao hiệu quả của chi phí, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực trong quản lý.
- Kế toán giúp các nhà quản lý nắm được chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành thực tế của từng loại sản phẩm, từng công trình, từng hoạt động và của từng bộ phận để xác định chi phí cần bù đắp để thực hiện tái sản xuất, để phân tích đánh giá tình hình thực hiện các định mức chi phí, dự toán chi phí và kế hoạch giá thành.
- Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm còn giúp các nhà quản lý tính toán, xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Để phát huy vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp, tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành đúng đắn và phù hợp.
- Tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định và bằng phương pháp thích hợp đã chọn, cung cấp kịp thời những số liệu, thông tin tổng hợp về các khoản mục chi phí và yếu tố chi phí quy định .
- Xác định phương pháp kế toán và quy nạp các chi phí vào các đối tượng một cách thích ứng với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu kiểm soát tập hợp chi phí và kiểm tra các dự toán, các định mức chi phí .
- Lựa chọn phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang, phương pháp tính giá thành sản phẩm đảm bảo tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm hoàn thành.
- Định kỳ cung cấp báo cáo về chi phí sản xuất và giá thành cho lãnh đạo doanh nghiệp và tiến hành phân tích tình hình thực hiện các kế hoạch giá thành, phát hiện kịp thời các khả năng tiềm tàng đề xuất biện pháp thích hợp để phấn đấu không ngừng tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.
* Sự cần thiết tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp:
Ngày nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phương thức đấu thầu xây dựng. Chính vì thế mà các sản phẩm xây lắp thường được xác định giá trị ngay từ đầu. Vậy công việc xác định giá trị xây lắp để có thể tiến hành tham dự đấu thầu, doanh nghiệp xây lắp phải tiến hành tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Thêm vào đó trong quá trình thi công do đặc điểm của các sản phẩm xây lắp có khối lượng lớn, chi phí phát sinh liên quan đến nhiều, có tính đơn chiếc chính vì thế mà cần thiết phải tiến hành theo dõi tập hợp chi phí sau đó tính giá thành sản phẩm để có thể so sánh được với giá trị xây lắp đã được dự toán từ đầu.
Chính vì thế phải khẳng định rằng, trong doanh nghiệp xây lắp thì việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hết sức cần thiết giúp cho lãnh đạo công ty có thể bám sát tình hình thực tế để đưa ra được các quyết định nhanh chóng phù hợp và đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm mà các sản phẩm đó vẫn đảm bảo chất lượng nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra như vũ bão
1.2. CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP.
1.2.1. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp.
1.2.1.1. Khái niệm, bản chất kinh tế của chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp là quá trình biến đổi các yếu tố về tư liệu sản xuất, đối tượng lao động (biểu hiện cụ thể là các hao phí về lao động vật hoá) với sự tác động có mục đích của sức lao động (biểu hiện là hao phí về lao động sống) sẽ trở thành các sản phẩm, công trình... Qua quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp cũng là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố đó. Chính vì vậy, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo nên giá trị sản phẩm xây lắp là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất.
Như vậy, ta có thể hiểu chi phí sản xuất kinh doanh trong xây dựng cơ bản là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, thi công và bàn giao sản phẩm xây lắp trong một kỳ nhất định. Trong đó chi phí về lao động sống gồm: Chi phí tiền lương, trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Chi phí về lao động vật hoá gồm: chi phí nguyên nhiên vật liệu, chi phí khấu hao tài sản cố định,...
Tuy nhiên trên góc độ quản lý khác nhau sẽ có các cách thể hiện, cách hiểu khác nhau v