Luận văn Tổ chức lập tài chính hợp nhất khi hợp nhất doanh nghiệp ở Việt Nam

Hợp nhất doanh nghiệp là một loại hình hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện trên thế giới từ cuối thế kỷ XIX, đặc biệt là ở các nước phát triển. Hợp nhất doanh nghiệp xuất hiện lần đầu tiên khi các xí nghiệp đã hợp nhất với nhau để tạo thành các công tyđộc quyền. Tiếp đó, vào thập kỷ 20 của thế kỷ này, một làn sóng hợp nhất theo chiều dọc đã diễn ra mạnh mẽ và thực tế ngày càng nhiều doanh nghiệp hợp nhất lại với nhau. Đến nữa cuối thập kỷ 80, làn sóng sáp nhập, hợp nhất và thôn tính giữa các doanh nghiệp diễn ra mạnh mẻ và đã trở thành một xu thế phổ biến trong nền kinh thế thế giới trong giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cạnh tranh đang diễn ra với nhiều hình thức khác nhau và trong mọi lĩnh vực khácnhau. Do hạn chế về khả năng và nguồn lực nên các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế buộc phải hợp tác với nhau trong quá trình sản xuất, tiêu thụ cũng như nghiên cứu và phát triển. Vì vậy, đặc điểm nổi bật trong cạnh tranh kinh tế hiện nay là cạnh tranh trong hợp tác, các bên tham gia cạnh tranh phải tìm cách hợp tác với nhau để cạnh tranh có hiệu quả hơn. Một hình thức hợp tác được các doanh nghiệp ưa thích hiện nay là hợp nhất doanh nghiệp. Hợp nhất doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng cho những doanh nghiệp tham gia hợp nhất, nó giúp các doanh nghiệp mở rộng quy mô, giảm đối thủ cạnh tranh; nó có thể giúp doanh nghiệp đa dạng hóa các hoạt động, mở rộng thị trường Ngoài ra, hợp nhất doanh nghiệp đôi khi còn tạo ra cho doanh nghiệp mới những khoản lợi về thuế. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng không nằmngoài xu thế này, biểu hiện rõ nhất là trong thời gian qua Chính phủ đã tiến hành sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước bằng cách sáp nhập, hợp nhất lại vớinhau, một số khác thì tự - 6 -tìm đến nhau thông qua việc mua bán, hợp nhất. Điều này cho thấy, việc hợp nhất giữa các doanh nghiệp tạo ra một sức mạnh cho doanh nghiệp cạnh tranh trên thương trường. Thực tế cho thấy nó có những ưu điểm nhất định, nhưng ở Việt Nam hợp nhất doanh nghiệp lần đầu xuất hiện trong Hệ thống kế toán được ban hành theo Luật doanh nghiệp (1999) và gần đây có nhiều nội dung mới được bổ sung trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam cũng như cácthông tư hướng dẫn để giúp các doanh nghiệp có thể tìm ra cách thức hạch toán phù hợp. Tuy nhiên, vẫn chưa có một văn bản nào quy định, hướng dẫn một cách cụ thể, rõ ràng để các doanh nghiệp vận dụng trong công tác hạch toán kếtoán cũng như trình bày các báo cáo tài chính của mình. Trong khi đó, hoạt động hợp nhất giữa các doanh nghiệp ngày càng diễn ra nhiều hơn và đadạng hơn. Trước một thực tế đó, đòi hỏi các cơ quan chủ quản phải cấp bách ban hành các văn bản nhằm hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động này. Cụ thể là Bộ tài chính phải ban hành các chuẩn mực kế toán và các thông tư hướng dẫn công tác kế toán các nghiệp vụ hợp nhất doanh nghiệp, cũng như việc lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất khihợp nhất doanh nghiệp. Trong quá trình học tập ở Trường kết hợp với công tác kế toán thực tế tại doanh nghiệp, tôi đã nhận thấy được tính cấp bách và cần thiết của vấn đề trên. Vì vậy, tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Tổ chức lập báo cáo tài chính hợp nhất khi hợp nhất doanh nghiệp ở Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ kinh tế của mình.

pdf114 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức lập tài chính hợp nhất khi hợp nhất doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu liên quan