Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, của dân tộc và nhân loại, sự biến đổi một số thành phần môi trường sẽ gây tác động đáng kể đối với các hệ sinh thái. Vì vậy, vấn đề bảo vệ môi trường luôn là một trong những nhiệm vụ trọng yếu và cấp bách của mỗi quốc gia nhất là ở các quốc gia đang phát triển.
Như chúng ta đã biết, hiện nay hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam đang rất phát triển. Hoạt động này đã mang lại thu nhập đáng kể cho người khai thác, đồng thời tạo hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, phải thừa nhận thực tế là bấy lâu con người chỉ chú trọng phát triển kinh tế hơn là quan tâm đến bảo vệ môi trường. Do đó, hoạt động khai thác khoáng sản hiện và đang gây ô nhiễm môi trường và ngày càng nghiêm trọng hơn.
Để bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta có những chủ trương, biện pháp giải quyết các vấn đề môi trường như là nghị quyết 41-NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước Và ngày 29 tháng 11 năm 2005 Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường 2005, trong đó tại điều 44 quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản. Quy định này nhằm ngăn ngừa, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua bên cạnh một số kết quả đạt được vẫn còn đó những hạn chế chưa khắc phục do việc am hiểu và chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản còn hạn chế. Bên cạnh đó là trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong vấn đề thực thi pháp luật còn nhiều bất cập.
Xuất phát từ tầm quan trọng của môi trường và nhiệm vụ mà Đảng đề ra trong quá trình cộng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như đã nêu trên, người viết đã chọn nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản – Pháp luật và thực tiễn”, nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản có hiệu quả và thực hiện nhiệm vụ đã đề ra
41 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2295 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản - Pháp luật và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, của dân tộc và nhân loại, sự biến đổi một số thành phần môi trường sẽ gây tác động đáng kể đối với các hệ sinh thái. Vì vậy, vấn đề bảo vệ môi trường luôn là một trong những nhiệm vụ trọng yếu và cấp bách của mỗi quốc gia nhất là ở các quốc gia đang phát triển.
Như chúng ta đã biết, hiện nay hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam đang rất phát triển. Hoạt động này đã mang lại thu nhập đáng kể cho người khai thác, đồng thời tạo hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, phải thừa nhận thực tế là bấy lâu con người chỉ chú trọng phát triển kinh tế hơn là quan tâm đến bảo vệ môi trường. Do đó, hoạt động khai thác khoáng sản hiện và đang gây ô nhiễm môi trường và ngày càng nghiêm trọng hơn.
Để bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước ta có những chủ trương, biện pháp giải quyết các vấn đề môi trường như là nghị quyết 41-NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước… Và ngày 29 tháng 11 năm 2005 Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường 2005, trong đó tại điều 44 quy định trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản. Quy định này nhằm ngăn ngừa, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua bên cạnh một số kết quả đạt được vẫn còn đó những hạn chế chưa khắc phục do việc am hiểu và chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản còn hạn chế. Bên cạnh đó là trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong vấn đề thực thi pháp luật còn nhiều bất cập.
Xuất phát từ tầm quan trọng của môi trường và nhiệm vụ mà Đảng đề ra trong quá trình cộng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như đã nêu trên, người viết đã chọn nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản – Pháp luật và thực tiễn”, nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản có hiệu quả và thực hiện nhiệm vụ đã đề ra.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật Việt nam về bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản với mục đích là nhằm nâng cao hiểu biết về những chính sách và pháp luật mà Nhà nước ta đã đề ra nhằm phục vụ hiệu quả công tác bảo vệ môi trường. Tiếp đến là tìm hiểu vấn đề thực thi pháp luật của các tổ chức, cá nhân có đạt được những kết quả khả quan hay không. Mục đích cuối cùng của quá trình nghiên cứu là trang bị cho mình những kiến thức hữu ích trrong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Đồng thời, với vốn hiểu biết của mình, từ đó có một số đề xuất đóng góp nhằm phục vụ cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này được nghiên cứu trong phạm vi pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Trong nội dung đề tài nghiên cứu của mình người viết chủ yếu đề cập đến một số loại khoáng sản như than, bauxite và cát trong quá trình khai thác ở một số nơi.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp: phân tích luật viết, phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách, báo cùng với phương pháp phân tích, tổng hợp. Đồng thời vận dụng những tư tưởng chỉ đạo của Đảng trên tinh thần các Nghị quyết qua các kỳ đại hội, cụ thể là Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước để làm phương hướng đề xuất những kiến nghị phù hợp với tình hình xã hội và yêu cầu bảo vệ môi trường ở nước ta.
5. Cấu trúc của đề tài
Để thuận tiện cho việc theo dõi, nghiên cứu cũng như tránh bỏ sót những vấn đề quan trọng cần đề cập, người viết phân chia luận văn làm ba chương, bao gồm:
Chương 1. Những lý luận cơ bản về môi trường và hoạt động khai thác khoáng sản
Chương 2. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản
Chương 3. Thực tiễn và các giải pháp bảo vệ môi trường hoạt động khai thác khoáng sản
Qua đây người viết xin gởi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể quý thầy cô Khoa Luật, trường Đại học Cần Thơ đặc biệt là thầy Kim Oanh Na – người đã tận tình hướng dẫn cho người viết hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được của đề tài vẫn còn những thiếu sót nhất định do người viết còn hạn chế về trình độ, khả năng và điều kiện nghiên cứu chưa thuận lợi. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô cùng bạn đọc!
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
Để nghiên cứu thành công một vấn đề cụ thể trong khoa học pháp lý, thì việc nghiên cứu vấn đề lý luận là một nền tảng vững chắc, làm cơ sở để nhận định luật thực định, có phương hướng đề ra cách thức giải quyết những vấn đề cần hoàn thiện về mặt pháp lý cũng như về thực tiễn một cách phù hợp nhất.
1.1 Khái quát về môi trường
1.1.1 Khái niệm môi trường
Thuật ngữ “môi trường” có thể được dùng trong rất nhiều các trường hợp khác nhau như môi trường sư phạm, môi trường xã hội, môi trường pháp lý,…Tất cả các thuật ngữ trên đều có điểm chung là: “là tập hợp các điều kiện và hiện tượng bên ngoài có một ảnh hưởng tới một vật thể hoặc một sự kiện nào đó”.
Môi trường theo nghĩa thông thường “là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ hay sinh vật ấy”, là “sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của một thực thể hữu cơ”, là “nơi chốn trong các nơi chốn, nhưng có thể làm một nơi chốn đáng chú ý, thể hiện các màu sắc xã hội của một thời kỳ hay một xã hội”.
Môi trường sử dụng trong lĩnh vực pháp lý là một khái niệm được hiểu như là như là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu như là những yếu tố, hoàn cảnh và tự nhiên bao quanh con người. Khoản 1 điều 3 Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước cộng xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ hợp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 định nghĩa môi trường “bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến sự sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”.
Theo định nghĩa của Luật bảo vệ môi trường thì con người trở thành trung tâm trong mối quan hệ với tự nhiên và dĩ nhiên mối quan hệ giữa con người với nhau tạo thành trung tâm đó chứ không phải mối liên hệ giữa các thành phần khác của môi trường.
Như vậy bất cứ một sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại trong một môi trường của nó. Tuy nhiên môi trường, cái mà loài người hiện nay phải đối mặt và nghiên cứu bảo vệ nó là môi trường sống bao quanh con người.
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại:
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả không khí, động, thực vật, đất,nước… Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, cung cấp cho ta cảnh để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ xã hội giữa người với người, đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định… Ở các cấp khác nhau như: Liên Hiệp Quốc, hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể… Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác.
Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển.
1.1.2 Khái niệm ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là một khái niệm được nhiều ngành khoa học định nghĩa. Dưới góc độ sinh học, khái niệm này chỉ tình trạng của môi trường trong đó những yếu tố hóa học, lý học của nó thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Dưới góc độ kinh tế học, ô nhiễm môi trường là sự thay đổi không có lợi cho môi trường sống về các tính chất vật lí, hóa học, sinh học mà qua đó có thể gây tác hại tức thời hoặc lâu dài đến sức khỏe của con người, các loài động thực vật và các điều kiện sống khác. Dưới góc độ pháp lý. ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật (khoản 6 điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005).
Có thể thấy điểm chung nhất giữa các định nghĩa nêu trên về ô nhiễm môi trường là chúng đều đề cập đến sự biến đổi các thành phần môi trường theo hướng xấu, gây bất lợi cho con người và sinh vật. Sự biến đổi các thành phần môi trường có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân chủ yếu là do các chất gây ô nhiễm.
Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có thể gây hại đến sức của con người, đến sự phát triển của sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hóa chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu. Điều này có nghĩa là những nguyên tố tự nhiên nào đó do sự tác động của con người dẫn đến nó bị biến đổi theo chiều hướng xấu đi không còn phù hợp với những tiêu chuẩn môi trường. Ví dụ như: Tại khu dân cư người ta tiến hành đo đạc và phân tích hàm lượng khí SO2 trong không khí thấy giá trị của nó là 0,5 mg/m3. Theo quy chuẩn Việt Nam (QCVN) 05:2009 của Bộ tài nguyên môi trường thì giới hạn cho phép của thông số này là 0,3 mg/m3. Như vậy không khí khu dân cư đó đã bị ô nhiễm khí SO2.
1.1.3 Khái niệm về bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường được hiểu là những hoạt động nhằm giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo môi trường sinh thái, ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Theo khoản 3 điều 6 của Luật Bảo vệ môi trường 2005 có quy định: “Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thối, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học”.
Thế giới ngày càng phát triển đã gây nên tác động xấu đến môi trường, làm cho môi trường ngày càng biến đổi sâu sắc, rộng lớn, bị ô nhiễm nghiêm trọng, đe dọa sự sống còn của hành tinh chúng ta. Vì vậy vấn đề môi trường và phát triển đã trở thành vấn đề hết sức cấp bách của chúng ta. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã sớm nhận rõ tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội và công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Chỉ thị 36-CT/TW, ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước” đã chỉ rõ: “Bảo vệ môi trường là vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại, là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đối giảm nghèo của mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới”. Mục tiêu của công tác bảo vệ môi trường là “ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, phục hồi và cải thiện môi trường ở các nơi, những vùng đã bị suy thoái, bảo tồn đa dạng sinh học, từng bước nâng cao chất lượng môi trường ở các khu công nghiệp, đô thị và nông thôn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
1.1.4 Chức năng và vai trò của môi trường
1.1.4.1 Chức năng của môi trường
Môi trường là cái nôi sinh thành và phát triển của con người. Những yếu tố cấu thành môi trường như không khí, nước, ánh sáng đều rất quan trọng đối với con người. Không khí để thở, nước để ăn uống và sinh hoạt, không gian là nơi để con người sinh sống… tất cả đều là những thành phần của môi trường có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại của con người. Sống trong môi trường, con người một mặt chịu ảnh hưởng của nhân tố môi trường, mặt khác con người lại tác động vào môi trường và làm cho môi trương biến đổi, sự ảnh hưởng của môi trường lại ảnh hưởng trở lại con người. Sự phát triển kinh tế - xã hội, hay nói cách khác sự phát triển là một quá trình sử dụng các tài nguyên sống và không sống để sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống con người.
Môi trường tự nhiên trong quan hệ với đời sống của con người và sự phát triển của xã hội loài người là một hệ thống tự nhiên có các chức năng sau:
- Thứ nhất: Môi trường là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự nhiên của con người. Chức năng đầu tiên của môi trường là nơi sinh sống và phát triển của xã hội loài người. Với chức năng này môi trường là nơi cung cấp hệ sinh thái như yếu tố vật chất cơ bản giúp sự tồn tại và phát triển của con người bao gồm không khí, nguồn nước, đất, cây cối, rừng và sinh vật. Những yếu tố này bị tổn hại đến một mức độ nhất định thì hậu quả của nó đe dọa đến sự sống của con người. Môi trường là không gian sống, là khung cảnh lao động, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí của con người.
- Thứ hai: Môi trường là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành đối tượng lao động sản xuất và hình thành các nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra của cải vật chất của loài người. Trong số này một số có thể tái tạo được, một số khác không thể tái tạo được. Trong quá trình khai thác, nếu mức độ khai thác nhanh hơn mức độ tái tạo thì gây ra tình trạng khan hiếm, suy kiệt hoặc khủng hoảng đối với môi trường. Với chức năng thứ hai này môi trường là nơi cung cấp nguyên liệu và năng lượng phục vụ hoạt động sản xuất kinh tế và đời sống của con người. Để tồn tại và phát triển, con người phải dựa vào các tài nguyên sẵn có trong tự nhiên và môi trường là nơi cung cấp các yếu tố đó.
- Thứ ba: Môi trường là nơi chứa đựng chất thải của quá trình sinh hoạt trong cuộc sống của con người và của quá trình sản xuất.
Trong quá trình sinh sống và phát triển xã hội, con người một mặt khai thác các nguồn tài nguyên để sinh hoạt và sản xuất các loại hàng hóa khác nhau nhưng lại thải vào môi trường các chất thải trong quá trình sinh hoạt và sản xuất.
1.1.4.2 Vai trò của môi trường đối với đời sống kinh tế - xã hội
Từ việc nhận thức chức năng của môi trường cho thấy môi trường có vai trò đặc biệt đối với đời sống kinh tế - xã hội.
Môi trường là không gian chứa đựng các cơ thể sống bao hàm xã hội loài người, giới sinh vật (động vật và thực vật). Mỗi cơ thể sống không thể tồn tại ở ngoài môi trường được. Vì vậy nói tới vai trò của môi trường đối với đời sống xã hội điều đầu tiên cần phải nhấn mạnh: Môi trường là không gian sống của mọi loài sinh vật (kể cả con người),các loài sinh vật sinh ra, lớn lên, trưởng thành và tiêu vong đều ở trong môi trường. Nếu không gian môi trường trong sạch sẽ làm cho chất lượng cuộc sống được nâng cao, mọi loài sinh vật sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển tốt, ngược lại nếu không gian môi trường bị ô nhiễm, môi trường bị suy thoái sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của cuộc sống và như vậy sẽ cản trở sự phát triển bình thường của mọi loài sinh vật, trong đó có xã hội loài người. Do đó bảo vệ môi trường, giữ cho môi trường trong sạch có tác dụng trực tiếp đến việc bảo tồn và duy trì sự sống của mọi sinh vật ở trong môi trường.
Môi trường là nơi cung cấp các yếu tố cần thiết, các điều kiện cần thiết cho sự sống của tất cả các loài sinh vật. Ăngghen nói “con người là sản phẩm của tự nhiên”, con người tồn tại trong môi trường tự nhiên, cùng phát triển với môi trường tự nhiên, vật chất trong cơ thể con người do môi trường tự nhiên cung cấp, không khí mà con người hít thở, nước mà con người uống… cũng đều từ môi trường tự nhiên và thức ăn của con người xét cho cùng cũng từ môi trường tự nhiên: lúa gạo, hoa màu, rau xanh, trái cây đều mọc từ đất, tôm cá lớn lên từ ao nước sông, hồ, biển… Con người và môi trường luôn thống nhất với nhau, sống trong môi trường con người một mặt chịu sự ảnh hưởng của môi trường, mặt khác con người lại tác động vào môi trường làm cho môi trường biến đổi, sự biến đổi của môi trường lại ảnh hưởng trở lại đối với con người. Những thứ mà môi trường tự nhiên cung cấp cho con người bao gồm những thứ có khả năng tái tạo được và những thứ không có khả năng không có khả năng tái tạo. Vì vậy, để đảm bảo cho xã hội phát triển con người cần phải biết giữ gìn những nguồn lực của tự nhiên để sử dụng lâu dài trong tương lai.
Môi trường là nơi diễn ra mọi quá trình lao động sản xuất, dù đó là sản xuất công nghiệp hay nông nghiệp cũng đều phải dựa trên nền tảng của môi trường. Các hoạt động văn hóa, xã hội, nghiên cứu khoa học, sáng tạo nghệ thuật… cũng phải dựa vào môi trường, sử dụng các “chất liệu” do môi trường cung cấp.
Nói tóm lại mọi sự sống trên trái đất và mọi quá trình hoạt động của con người đều được tiến hành trong môi trường, đều dựa vào môi trường và sử dụng các yếu tố có sẵn của môi trường. Xuất phát từ nhận thức đó chúng ta môi trường có vai trò to lớn, quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mọi loài sinh vật sống trong môi trường.
1.1.5 Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế - xã hội
Các nhà kinh tế học đã chỉ ra rất nhiều nguyên nhân tạo nên sự phát triển của kinh tế - xã hội: đó là sự ra đời của máy móc, công cụ khoa học kỹ thuật, đó là sự thông minh cùng với óc sáng tạo và khả năng lao động của con người… nhưng hơn tất cả đó là môi trường. Tự bản thân máy móc, công cụ sẽ không phát huy tác dụng nếu không có nguyên vật liệu, nhiên liệu; con người dù thông minh sáng tạo đến bao nhiêu cũng sẽ không thể có không gian để tồn tại và sản xuất nếu không có môi trường. Không thể tách sự phát triển kinh tế - xã hội khỏi môi trường, môi trường và phát triển có mối quan hệ khăng khít với nhau. “Nếu không bảo vệ môi trường một cách chính đáng, phát triển sẽ bị yếu dần. Ngược lại, không có phát triển, bảo vệ môi trường sẽ thất bại”.
Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu hướng chung của từng cá nhân và cả loài người trong quá trình sống, giữa môi trường và phát triển có mối quan hệ hết sức chặt chẽ: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi tích cực và tiêu cực đối với môi trường. triển kinh tế - xã hội là nhu cầu tất yếu của loài người và tất nhiên trong quá trình phát triển kinh tế con người sẽ phải khai thác môi trường, do vậy ở đây nảy sinh mâu thuẫn giữa việc phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Trong phạm vi một quốc gia, cũng như trên toàn thế giới, luôn luôn tồn tại hai hệ thống: Hệ thống kinh tế - xã hội và hệ thống môi trường. Hệ thống kinh tế - xã hội cấu thành bởi các khâu: Sản xuất, lưu thông phân phối, tiêu thụ, tạo nên một dòng luân chuyển nguyên liệu, năng lượng, hàng hóa, phế thải giữa các phần tử của hệ thống. Hệ thống môi trường với các thành phần thiên nhiên và xã hội cùng tồn tại trên một địa bàn với hệ thống kinh tế - xã hội. Mối quan hệ hay mâu thuẫn đều được biểu hiện