Luận văn Ứng dụng chiến lược PBL (problem –based learning) giảng dạy một sốbài trong chương động lực học chất điểm

Giữa thếkỷXIX khoa học kỹthuật đã bắt đầu phát triển mạnh, những kiến thức mà học sinh học được từhôm nay thì có thểxem là lạc hậu với ngày mai, và dĩnhiên đối với giáo viên thì kiến thức họhọc được trong quá trình học đến khi ra giảng dạy thì không còn mới mẻ đối với học sinh. Đặc biệt thế kỷXXI được xemlà thếkỷcủa sự“bùng nổ” thông tin thì đòi hỏi người giáo viên không thểdạy cho học sinh tất cảnhững gì mà chúng cần trong tương lai, bên cạnh những kiến thức cơbản thì giáo viên cần phải dạy cho học sinh khảnăng tựhọc, tựtìm kiếm thông tin, giải quyết với những vấn đềthách thức trong cuộc sống và dạy cho HS các kỹnăng sống Hội nhập với xu hướng đổi mới giáo dục trên thếgiới, việc đổi mới công tác giáo dục ởnước ta diễn ra rất sôi động trong thời gian gần đây. Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề-PBL là một trong những phương pháp dạy học mới có thể đáp ứng được các yêu cầu của mục tiêu đào tạo con người trong thời đại ngày nay. Phương pháp này đã được áp dụng rất hiệu quả ởmột sốtrường đại học và phổthông trên thếgiới. Ởnước ta phương pháp này được áp dụng ởmột sốtrường đại học nhưng phổthông thì còn rất hạn chế. Đểhòa nhập với xu thếthời đại, việc đưa phương pháp dạy học PBL vào giảng dạy chương trình phổthông là cần thiết.

pdf97 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1733 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ứng dụng chiến lược PBL (problem –based learning) giảng dạy một sốbài trong chương động lực học chất điểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trương Thị Minh Uyên ỨNG DỤNG CHIẾN LƯỢC PBL (problem –based learning) GIẢNG DẠY MỘT SỐ BÀI TRONG CHƯƠNG ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật Lý Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN HOA Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Phòng KHCN-Sau Đại học, Ban chủ nhiệm cùng toàn thể thầy cô khoa Vật lý, thầy Lý Minh Tiên thuộc khoa Tâm lý giáo dục của trường Đại học Sư Phạm TP.Hồ Chí Minh và Ban Giám Hiệu trường THCS-THPT Đinh Thiện Lý đã giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi thực hiện luận văn này. Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn về sự hướng dẫn tận tình và đầy trách nhiệm của thầy Nguyễn văn Hoa trong suốt thời gian nghiên cứu để hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình và các bạn đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT PBL (Problem Based Learning) : dạy học dựa trên giải quyết vấn đề HS : học sinh GV : giáo viên PPDH : phương pháp dạy học SGK : sách giáo khoa ĐC : đối chứng TN : thực nghiệm MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Giữa thế kỷ XIX khoa học kỹ thuật đã bắt đầu phát triển mạnh, những kiến thức mà học sinh học được từ hôm nay thì có thể xem là lạc hậu với ngày mai, và dĩ nhiên đối với giáo viên thì kiến thức họ học được trong quá trình học đến khi ra giảng dạy thì không còn mới mẻ đối với học sinh. Đặc biệt thế kỷ XXI được xem là thế kỷ của sự “bùng nổ” thông tin thì đòi hỏi người giáo viên không thể dạy cho học sinh tất cả những gì mà chúng cần trong tương lai, bên cạnh những kiến thức cơ bản thì giáo viên cần phải dạy cho học sinh khả năng tự học, tự tìm kiếm thông tin, giải quyết với những vấn đề thách thức trong cuộc sống và dạy cho HS các kỹ năng sống…Hội nhập với xu hướng đổi mới giáo dục trên thế giới, việc đổi mới công tác giáo dục ở nước ta diễn ra rất sôi động trong thời gian gần đây. Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề-PBL là một trong những phương pháp dạy học mới có thể đáp ứng được các yêu cầu của mục tiêu đào tạo con người trong thời đại ngày nay. Phương pháp này đã được áp dụng rất hiệu quả ở một số trường đại học và phổ thông trên thế giới. Ở nước ta phương pháp này được áp dụng ở một số trường đại học nhưng phổ thông thì còn rất hạn chế. Để hòa nhập với xu thế thời đại, việc đưa phương pháp dạy học PBL vào giảng dạy chương trình phổ thông là cần thiết. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Đề tài này nhằm những mục tiêu sau:  Nghiên cứu lí luận, tìm hiểu sâu, so sánh, phân tích và đánh giá mô hình dạy học truyền thống và một số chiến lược (mô hình) dạy học tích cực, đặc biệt là chiến lược PBL (problem/project-based learning)  Áp dụng sáng tạo chiến lược dạy học tích cực - PBL (problem-based learning) vào dạy học một số bài trong chương “Động lực học chất điểm”  Bước đầu hình thành cho HS kỹ năng khai thác, sử dụng thông tin, kỹ năng giải quyết vấn đề làm việc nhóm và khả năng tự học nhằm nâng cao chất lượng dạy học vật lý ở trường THPT. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu: học sinh lớp 10A3 và 10A4 ban trường THCS- THPT Đinh Thiện Lý, khu P1 lô A Đô thị mới nam thành phố P.Tân Phong Q.7  Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu quá trình ứng dụng chiến lược PBL vào chương trình Vật Lý lớp 10 Nâng Cao cụ thể là áp dụng vào giảng dạy chương II “ Động lực học chất điểm” thông qua giải quết vấn đề “trạng thái không trọng lượng” 4. Giả thuyết khoa học- Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu Việc ứng dụng chiến lược vào giảng dạy sẽ giúp cho học sinh rèn luyện khả năng giải quyết vấn đề vào các tình huống có thật trong thực tiễn, khả năng tìm kiến tài liệu thông tin, phát triển tư duy phê phán và sáng tạo, khả năng cộng tác làm việc nhóm, khả năng quản lí, lãnh đạo và ra quyết định và thông qua đó đảm bảo học sinh sẽ tiếp nhận được những kiến thức của bài học. Chiến lược dạy học này sẽ phát huy tính tính cực, tự lực học tập, niếm đam mê của học sinh đồng thời nâng cao hiệu quả chất lượng nắm vững kiến thức của học sinh 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục tiêu trên, đề tài có những nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau:  Nghiên cứu cơ sở lí luận của chiến lược dạy học PBL (project/problem- based learning) và so sánh chiến lược PBL với các chiến lược dạy học khác để làm nổi bật ưu điểm của chiến lược dạy học này.  Tìm hiểu thực tế dạy học một số nội dung kiến thức chương II (lực hấp dẫn, hệ quy chiếu có gia tốc - lực quán tính, lực hướng tâm và lực quán tính li tâm- hiện tượng tăng, giảm, mất trọng lượng, chất lỏng-hiện tượng căng bề mặt của chất lỏng). Thông qua đó, tìm hiểu nguyên nhân của những khó khăn, sai lầm và sơ bộ đề ra hướng khắc phục.  Soạn thảo tiến trình dạy học các kiến thức trên bằng cách sử dụng chiến lược dạy học dựa trên vấn đề (problem-based learning) để khắc phục những khuyết điểm của cách dạy truyền thống và phát huy được nhiều mặt tích cực cho học sinh.  Soạn thảo tiêu chí đánh giá phù hợp với chiến lựơc dạy học để kiểm tra quá trình và kết quả học tập mà học sinh đạt được sau khi học xong.  Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở trường THPT nhằm xác định mức độ phù hợp, tính khả thi và tính hiệu quả của việc áp dụng chiến lược dạy học dựa trên vấn đề (PBL).  Đề xuất ý kiến, nhận xét, biện pháp để nâng cao chất lựơng dạy và học khi áp dụng chiến lược này. 6. Phương pháp nghiên cứu  Phương pháp nghiên cứu lí luận  Nghiên cứu các tài liệu lí luận dạy học nhằm tìm hiểu về các quan điểm dạy học truyền thống và hiện đại. Tìm hiểu các chiến lược dạy học tích cực, phân tích đặc điểm của các chiến lược để áp dụng có hiệu quả vào việc dạy học, đặc biệt là chiến lược giải quyết dựa trên vấn đề (problem-based learning).  Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo để xác định nội dung và cấu trúc của kiến thức mà học sinh cần nắm vững.  Phương pháp điều tra, khảo sát dạy học phần nội dung kiến thức đề tài quan tâm Tìm hiểu thông qua việc dự giờ, trao đổi với giáo viên, sử dụng phiếu điều tra cho học sinh để thấy được khó khăn, sai lầm từ đó đưa ra hướng khắc phục bằng cách áp dụng chiến lược PBL.  Phương pháp thực nghiệm  Tiến hành dạy học theo chiến lược giải quết dựa trên vấn đề  Phân tích tình hình diễn biến của lớp học  Phân tích kết quả đánh giá học sinh  Đưa những nhận xét sau khi thực nghiệm sư phạm, đánh giá tính khả thi của đề tài. Phân tích ưu nhược điểm để điểu chỉnh cho phù hợp nếu cần thiết. Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI DẠY HỌC THEO PHƯƠNG PHÁP PBL 1.1. Tổng quan về đổi mới dạy học theo hướng dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm[4] [5] [6] [7] 1.1.1. Quan điểm phương Đông và quan điểm phương Tây về dạy học - Quan điểm phương Đông: năm 520 TCN Khổng Tử đã cho rằng: những gì tôi nghe tôi sẽ quên, những gì tôi nhìn tôi sẽ nhớ, những gì tôi làm tôi sẽ hiểu. - Quan điểm phương Tây: Nghe quên Nghe và nhìn nhớ chút ít Nghe, nhìn, hỏi, thảo luận bắt đầu hiểu Nghe, nhìn, thảo luận, thực hành học được kỹ năng, kiến thức Dạy cho người khác thành thạo - Theo nghiên cứu khoa học cho thấy mức độ tiếp thu của người học phụ thuộc vào các hoạt động trên lớp: người học chỉ tiếp thu được 5% kiến thức khi giáo viên thuyết giảng, 10% kiến thức khi người học được đọc, 20% kiến thức khi người học vừa được nghe vừa được nhìn, 30% kiến thức khi người học mô tả, trình bày lại, 50 % kiến thức khi thảo luận nhóm, 75% kiến thức khi được thực hành, 90% kiến thức khi dạy lại cho người khác hoặc ứng dụng được kiến thức vừa học. Như vậy mức độ tiếp thu của người học ngày càng cao khi vai trò của người càng chuyển về vị trí trung tâm. 1.1.2. Phân tích nhu cầu của xã hội, người học hiện nay và những yêu cầu đối với giáo dục - Theo Unesco thì chủ động đương đầu với thực tiễn là phẩm chất để thành công và phát triển con người trong thời đại ngày nay, nhu cầu này đòi hỏi giáo dục cần phải rèn luyện cho học sinh chủ động đối diện đương đầu với các vấn đề của thế giới thực đã và đang xảy ra - Tư duy độc lập, tư duy phê phán là cần thiết để giải quyết các vấn đề, từ đó cho thấy giáo dục phải có chiến lược dạy học thích hợp để tư duy bậc cao có thể phát triển ở mọi lứa tuổi - Các kỹ năng sống là điều kiện tiên quyết để thành công trong mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn, từ đó yêu cầu việc học phải hướng tới hình thành các kỹ năng sống như: hợp tác làm việc nhóm, khả năng giao tiếp, quản lí, ra quyết định, tổng hợp thông tin… - Theo báo cáo về giáo dục của Unesco: thế kỷ XXI là thế kỷ thành công của nhân cách đa dạng, khả năng thích nghi và óc sáng tạo cho nên dạy học phải giúp học sinh phát triển toàn diện nhân cách, phải tạo cơ hội cho học sinh chủ động, tích cực thể hiện các phong cách học khác nhau, phải phát triển nhiều loại trí thông minh - Học sinh ngày nay trưởng thành trong thời đại kỹ thuật số với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đặc biệt là công nghệ thông tin đòi hỏi trong quá trình giáo dục cũng như tạo ra các sản phẩm học tập cần phải chú trọng việc sử dụng và tích hợp công nghệ thông tin 1.1.3. Mục tiêu của dạy học vật lý Đổi mới dạy học ở trường phổ thông theo hướng đảm bảo được sự phát triển năng lực sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng tư duy khoa học, năng lực tự tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, năng lực giải quyết các vấn đề để thích ứng với cuộc sống thực tiễn, với sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Cụ thể:  Về mặt kiến thức: - Kiến thức cần thiết cho cuộc sống hằng ngày, cho nhiều ngành lao động trong xã hội (gồm chủ yếu là vật lý cổ điển và một số thành tựu của vật lý hiện đại - Kiến thức trình bày phù hợp với tinh thần của các thuyết vật lý - Ứng dụng mang tính cập nhật  Về mặt kỹ năng, năng lực tư duy - Thu thập thông tin quan sát được, điều tra, tra cứu, khai thác thông tinh qua mạng - Xử lí thông tin: khái quát hoá rút ra kết luận, lập bảng biểu, vẽ đồ thị, sắp xếp, hệ thống hoá, lưu giữ thông tin - Truyền đạt thông tin bằng lời nói - Phát hiện, nêu vấn đề, đề xuất giả thuyết và phương pháp giải quyết vấn đề - Sử dụng các dụng cụ đo lường phổ thông - Lắp ráp và thực hiện thí nghiệm - Khả năng tự học, tự chiếm lĩnh tri thức kỹ năng  Về mặt tình cảm thái độ: - Dạy bằng hành động, thông qua hoạt động - Theo hướng phát hiện và giài quyết vấn đề - Nêu giải thuyết, kiểm chứng băng thực nghiệm - Khắc phục hiểu biết sai hoặc chưa đầy đủ - Tăng cường dạy học theo nhóm và cá thể hoá - Đa dạng hoá hành động học tập trong và ngoài lớp 1.1.4. Các kỹ năng trong thế kỷ 21 Kỹ năng là khả năng vận dụng các kiến thức thu nhận được vào thực tiễn. Hiện nay trên thế giới người ta chia làm ba kỹ năng: kỹ năng chuyên môn (liên quan đến kỹ thuật chuyên môn, nghiệp vụ, công nghệ thông tin), kỹ năng tư duy nhận thức (liên quan đến tầm nhìn, tư duy sáng tạo, tư duy tích cực, tinh thần học tập suốt đời), kỹ năng làm việc với con người-kỹ năng sống (kỹ năng giao tiếp, trình bày, giải quyết vấn đề giải quyết mâu thuẩn, kỹ năng hoạch định, kỹ năng làm việc tập thể, xây dựng tinh thần đồng đội, kỹ năng xử lí thông tin, kỹ năng tự học hỏi). Nhà nước cũng xem việc đào tạo kỹ năng là thành phần quan trọng trong việc giáo dục của chúng ta, theo Luật Giáo Dục 38/2005/QH11): Điều 3: Tính chất, nguyên lí giáo dục: “Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lí học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội” Điều 5: Yêu cầu về nội dung và phương pháp giáo dục: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” Điều 27: Mục tiêu giáo dục phổ thông: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị tiếp tục cho học sinh học lên, hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” Đều 28: Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh” 1.1.5. Nghiên cứu quan điểm dạy học tích cực của Robert Marzano [5] [6] Mục đích của quá trình dạy học không phải chỉ là dạy kiến thức mà còn dạy kỹ năng, rèn luyện các thói quen tư duy sáng tạo, tích cực…Quan điểm dạy học tích cực của Robert Marzano nhằm rèn luyện kỹ năng và thói quen tư duy được diễn đạt dưới năm định hướng. Năm định hướng của Marzano là một trong những xu hướng dạy học hiện đại lấy người học làm trung tâm. Tư tưởng dạy học này do người Mỹ Robert Marzano nêu lên trong công trình “A Different Kind of Classroom” do “Association for Supervision and Cirriculum Devenlopment” xuất bản. Marzano đã đề ra năm định hướng đan xen trong quá trình dạy học nhằm làm thế nào để học sinh vừa nắm vững kiến thức vừa phát triển tư duy thông qua hoạt động dạy học. Mô hình “học bằng năm định hướng” như một cách nói ẩn dụ của hoạt động thần kinh não trong quá trình học tập. Năm định hướng đó là: Định hướng 1: Thái độ và sự nhận thức tích cực về việc học Nếu ta quan niệm mỗi giờ học là một quá trình làm việc tích cực, trong đó diễn ra nhiều hoạt động dạy và học với các thao tác tư duy thì HS sẽ khó có thể đạt hiệu quả cao trong học tập nếu không có thái độ và sự nhận thức tích cực về việc học. Để giờ học hiệu quả, HS phải tạo tâm thế sẵn sàng khi bước vào giờ học và tâm thế ấy phải được duy trì trong suốt quá trình học và giáo viên phải tổ chức để tạo bầu không khí học tập tích cực trong lớp. Định hướng 2: Tổ chức việc thu nhận và tổng hợp kiến thức Mục đích của định hướng này là cung cấp kiến thức cho HS và cách thức để giúp HS thu nhận và tổng hợp kiến thức một cách có hiệu quả. Định hướng 3: Phát triển tư duy thông qua việc mở rộng và tinh lọc kiến thức Quá trình học tập không chỉ nhằm nắm được nội dung kiến thức và các kỹ năng. Trong một thế giới phát triển và luôn có những biến đổi thì những kiến thức và kỹ năng HS đã thu nhận trong định hướng 2 sẽ mau chóng trở nên lạc hậu. Do vậy nếu người học chỉ nhớ máy móc nội dung kiến thức thì sẽ chưa đủ, họ phải có khả năng mở rộng và tự tinh lọc những kiến thức và kỹ năng cần thiết. Nói cách khác, người học phải có năng lực tư duy để tự học suốt đời, tự đổi mới để thích nghi với thực tế cuộc sống. Mở rộng và tinh lọc kiến thức là một phần của tiến trình tư duy bậc cao, liên quan đến việc kiểm tra những điều đã được học, được biết ở một mức độ cao hơn và phân tích sâu hơn. Một số hoạt động thích hợp chi việc mở rộng và tinh lọc kiến thức là: so sánh, phân loại, quy nạp, suy luận, phân tích lỗi, xây dựng sự ủng hộ, khái quát hoá, phân tích quan điểm (có quan điểm riêng về các vấn đề) Định hướng 4: Sử dụng kiến thức một cách có hiệu quả Những thao tác tư duy trong định hướng 3 sẽ không được phát huy nếu chúng không được sử dụng một cách có hiệu quả. Việc học sẽ trở nên cần thiết và hấp dẫn hơn nếu HS biết được những kiến thức mình học sẽ được sử dụng như thế nào. Việc sử dụng kiến thức có hiệu quả thể hiện ở những hoạt động: ra quyết định, điều tra, thí nghiệm, giải quyết vấn đề, phát minh. Định hướng 5: Rèn luyện thói quen tư duy Định hướng này có thể coi là mục đích của quá trình dạy học. Khi HS có thói quen tư duy, việc học tập của HS sẽ đạt kết quả cao. Phát triển thói quen tư duy sẽ giúp cho HS có khả năng tự học tốt hơn đồng thời hỗ trợ rất nhiều cho họ trong tương lai. Chúng ta không thể biết trong tương lai HS cần những gì để trao hết cho họ, điều này lại càng khó hơn trong thời đại tri thức phát triển như vũ bão như ngày nay. Con người có xu hướng quên đi những thông tin không cần thiết, không được sử dụng. Những nội dung kiến thức mà HS thu nhận là quan trọng nhưng nó không phải là mục tiêu quan trọng nhất của tiến trình giáo dục. Nó giúp HS phát triển, hình thành kỹ năng và thói quen tư duy. Với kỹ năng và thói quen này HS có thể học bất cứ cái gì họ muốn ở bất cứ nơi nào, vào bất cứ khi nào. 1.1.6. Phân loại tư duy của Bloom Vào năm 1956 Benjamin Bloom đã viết cuốn “Phân loại tư duy theo mục tiêu giáo dục” gồm ba phần: lĩnh vực nhận thức (cognitive domain) ở đó các mục đích học tập liên quan đến kiến thức, lĩnh vực kỹ năng (psychomotor domain) ở đó các mục đích học tập liên quan đến kỹ năng thực hành, lĩnh vực cảm xúc (affective domain) ở đó các mục đích học tập liên quan đến hứng thú, thái độ và giá trị. Kết quả nghiên cứu của ông được sử dụng để xây dụng mục tiêu chương trình học từ phổ thông đến đại học và đã mang lại cuộc cách mạng về chất lượng giáo dục ngay sau đó. Danh mục những quá trình nhận thức của ông được sắp xếp từ mức độ đơn giản nhất đến mức độ phức tạp nhất: Nhớ (knowledge): Được định nghĩa là sự nhớ lại các dữ liệu đã học được trước đây. Điều đó có nghĩa là một người có thể nhắc lại một loạt dữ liệu, từ các sự kiện đơn giản đến các lý thuyết phức tạp, tái hiện trong trí nhớ những thông tin cần thiết. Đây là cấp độ thấp nhất của kết quả học tập trong lĩnh vực nhận thức. Thông hiểu (comprehension): Được định nghĩa là khả năng nắm được ý nghĩa của tài liệu. Điều đó có thể thể hiện bằng việc chuyển tài liệu từ dạng này sang dạng khác (từ các từ sang số liệu), bằng cách giải thích tài liệu (giải thích hoặc tóm tắt) và bằng cách ước lượng xu hướng tương lai (dự báo các hệ quả hoặc ảnh hưởng). Kết quả học tập ở cấp độ này cao hơn so với nhớ, và là mức thấp nhất của việc thấu hiểu sự vật. Vận dụng (application): Được định nghĩa là khả năng sử dụng các tài liệu đã học vào một hoàn cảnh cụ thể mới. Điều đó có thể bao gồm việc áp dụng các quy tắc, phương pháp, khái niệm, nguyên lý, định luật và lý thuyết. Kết quả học tập trong lĩnh vực này đòi hỏi cấp độ thấu hiểu cao hơn so với cấp độ hiểu trên đây. Đánh giá Tổng hợp kiến thức Tư duy tích cực Phân chia kiến thức Tư duy tích cực Sử dụng kiến thức trong tình huống mới Hiểu Nhớ lại Thang mức độ nhận thức của Bloom Phân tích (analysis): Được định nghĩa là khả năng phân chia một tài liệu ra thành các phần của nó sao cho có thể hiểu được các cấu trúc tổ chức của nó. Điều đó có thể bao gồm việc chỉ ra đúng các bộ phận, phân tích mối quan hệ giữa các bộ phận, và nhận biết được các nguyên lý tổ chức được bao hàm. Kết quả học tập ở đây thể hiện một mức độ trí tuệ cao hơn so với mức hiểu và áp dụng vì nó đòi hỏi một sự thấu hiểu cả nội dung và hình thái cấu trúc của tài liệu. Tổng hợp (synthesis): Được định nghĩa là khả năng sắp xếp các bộ phận lại với nhau để hình thành một tổng thể mới. Điều đó có thể bao gồm việc tạo ra một cuộc giao tiếp đơn nhất (chủ đề hoặc bài phát biểu), một kế hoạch hành động (dự án nghiên cứu), hoặc một mạng lưới các quan hệ trừu tượng (sơ đồ để phân lớp thông tin). Kết quả học tập trong lĩnh vực này nhấn mạnh các hành vi sáng tạo, đặc biệt tập trung chủ yếu vào việc hình thành các mô hình hoặc cấu trúc mới. Đánh giá (evaluation): Được định nghĩa là khả năng xác định giá trị của tài liệu (tuyên bố, tiểu thuyết, thơ, báo cáo nghiên cứu). Việc đánh giá dựa trên các tiêu chí nhất định. Đó có thể là các tiêu chí bên trong (cách tổ chức) hoặc các
Tài liệu liên quan