Luận văn Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý học ở Việt Nam từ1975 đến nay

Sáng tác văn học có hai kiểu chính là hiện thực và lãng mạn. Bêlinxki từng đề nghịhai kiểu sáng tác này là kiểu sáng tác tái hiện và kiểu sáng tác tái tạo. Kiểu sáng tác tái tạo thiên vềbộc lộnhững yếu tốchủquan hơn là phản ánh thếgiới khách quan, bày tỏlýtưởng hơn là môtảthực tại. Kiểu sáng tác tái hiện lại quan tâm trước hết đến mảnh đất thực tại và luôn tôn trọng sựthực khách quan,môtảcuộc sống nhưnó vốn có hơn là cần có. Cảhai kiểu sáng tác ấy đều có vẻ đẹp riêng và không ít khi cùng hiện diện trong từng tác phẩm cụthể. Tuy nhiên, khi đến với văn chương, con người mong muốn làmgiàu cho mình bằng một thếgiới của những ước mơ, mộng tưởng, nhưng vẫn không thôi tìm kiếm ở đó bóng dáng của thếgiới hiện tồn. Hơn nữa, những ước mơ, hoài bão dù bay cao, bay xa đến đâu, vẫn thoát thai từmảnh đất hiện thực; những niềm vui, nỗi buồn của thếgiới tâm hồn dù phức tạp đến đâu cũng bắt nguồn và được giải thích bằng hiện thực. Chính vì vậy,chất lượng phản ánh cuộc sống, giá trịhiện thực của tác phẩm vẫn luôn là những vấn đề được đặc biệt quan tâm. Người ta có thểtìm thấy điều này nhiều nhất ởchủnghĩa hiện thực, một trào lưu, một phương pháp sáng tác ra đời vào nửa đầu thếkỷXIX, được xemlà phát huy cao độnhất kiểu sángtác tái hiện. Nếu xemkiểu sáng tác tái hiện là một dòng sông, giá trịhiện thực là chất phù sa của dòng sông ấy, thì chủnghĩa hiện thực chính là khúc sông chảy xiết và chuyên chởnhiều phù sa nhất.

pdf166 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2162 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý học ở Việt Nam từ1975 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG NG VẤN ĐỀ TRONG LÝ LUẬ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH UYỄN THỊ HỒNG HẠNH CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC LUẬN VĂN HỌC Ở VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY N VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2008 TRƯỜNG VẤN ĐỀ TRONG LÝ Chuyên ngàn Mã số: 60 22 LUẬ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC LUẬN VĂN HỌC Ở VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY h: Lý luận văn học 32 N VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG Thành phố Hồ Chí Minh - 2008 1 MỤC LỤC trang MỤC LỤC…………………………………………………………..…...................1 MỞ ĐẦU……………………………………………………………………............3 Chương 1 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CHUNG VỀ VẤN ĐỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG LÝ LUẬN VĂN HỌC Ở VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY ................................................................. 10 1.1. Cơ sở xã hội và tư tưởng: .............................................................................. 10 1.1.1. Cơ sở xã hội: ...................................................................................................10 1.1.2. Cơ sở tư tưởng: ...............................................................................................15 1.2. Tình hình nghiên cứu: ................................................................................... 22 1.2.1. Những năm 1975 – 1985: ..............................................................................26 1.2.2. Những năm 1986- 2000: ................................................................................32 1.2.3. Những năm đầu thế kỷ XXI: .........................................................................41 Chương 2 VẤN ĐỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG CÁC GIÁO TRÌNH LÝ LUẬN VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY . 53 2.1. Lược thuật nội dung các giáo trình bàn về chủ nghĩa hiện thực: .................. 54 2.1.1. Chủ nghĩa hiện thực theo nghiên cứu của Lê Đình Kỵ: ............................54 2.1.3. Chủ nghĩa hiện thực theo nghiên cứu của Đỗ Văn Khang:.......................74 2.2. Đánh giá việc biên soạn giáo trình lý luận văn học về vấn đề chủ nghĩa hiện thực:....................................................................................................... 78 Chương 3 VẤN ĐỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG CÁC TIỂU LUẬN, CHUYÊN KHẢO VỀ LÝ LUẬN VĂN HỌC Ở VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY ................................................................ 95 3.1. Khái niệm: ..................................................................................................... 96 3.2. Thời điểm xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực: ............................................ 100 3.2.1. Chủ nghĩa hiện thực trong văn học cổ phương Đông: .............................101 3.2.2. Sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam:..................................104 2 3.3. Văn học phản ánh hiện thực: ....................................................................... 108 3.3.1. Khái niệm hiện thực: ....................................................................................108 3.3.2. Vấn đề văn học phản ánh hiện thực:..........................................................115 3.4. Vị trí và quan hệ của chủ nghĩa hiện thực:.................................................. 131 3.4.1. Vị trí của chủ nghĩa hiện thực:....................................................................131 3.4.2. Mối quan hệ của chủ nghĩa hiện thực với các trào lưu, phương pháp sáng tác khác:.................................................................................................136 3.5. Xu hướng vận động và phát triển của chủ nghĩa hiện thực:........................ 142 KẾT LUẬN ………………………………………………………………….….153 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 157 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Sáng tác văn học có hai kiểu chính là hiện thực và lãng mạn. Bêlinxki từng đề nghị hai kiểu sáng tác này là kiểu sáng tác tái hiện và kiểu sáng tác tái tạo. Kiểu sáng tác tái tạo thiên về bộc lộ những yếu tố chủ quan hơn là phản ánh thế giới khách quan, bày tỏ lý tưởng hơn là mô tả thực tại. Kiểu sáng tác tái hiện lại quan tâm trước hết đến mảnh đất thực tại và luôn tôn trọng sự thực khách quan, mô tả cuộc sống như nó vốn có hơn là cần có. Cả hai kiểu sáng tác ấy đều có vẻ đẹp riêng và không ít khi cùng hiện diện trong từng tác phẩm cụ thể. Tuy nhiên, khi đến với văn chương, con người mong muốn làm giàu cho mình bằng một thế giới của những ước mơ, mộng tưởng, nhưng vẫn không thôi tìm kiếm ở đó bóng dáng của thế giới hiện tồn. Hơn nữa, những ước mơ, hoài bão dù bay cao, bay xa đến đâu, vẫn thoát thai từ mảnh đất hiện thực; những niềm vui, nỗi buồn của thế giới tâm hồn dù phức tạp đến đâu cũng bắt nguồn và được giải thích bằng hiện thực. Chính vì vậy, chất lượng phản ánh cuộc sống, giá trị hiện thực của tác phẩm vẫn luôn là những vấn đề được đặc biệt quan tâm. Người ta có thể tìm thấy điều này nhiều nhất ở chủ nghĩa hiện thực, một trào lưu, một phương pháp sáng tác ra đời vào nửa đầu thế kỷ XIX, được xem là phát huy cao độ nhất kiểu sáng tác tái hiện. Nếu xem kiểu sáng tác tái hiện là một dòng sông, giá trị hiện thực là chất phù sa của dòng sông ấy, thì chủ nghĩa hiện thực chính là khúc sông chảy xiết và chuyên chở nhiều phù sa nhất. Trong tiến trình văn học, chủ nghĩa hiện thực là một trào lưu, một phương pháp sáng tác quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy nghệ thuật của con người. Phát huy những điểm mạnh, đồng thời khắc phục những hạn chế của các trào lưu, phương pháp xuất hiện trước đó, chủ nghĩa hiện thực đã kết tinh được truyền thống văn học và tinh thần thời đại. Trong giai đoạn cực thịnh của mình, chủ nghĩa hiện thực đã đóng góp cho kho tàng văn học thế giới biết bao tác phẩm, với 4 không ít những kiệt tác, thể hiện chân thực và sâu sắc thế giới khách quan cũng như tâm hồn con người. Cuối thế kỷ XIX, mặc dù có chiều hướng suy thoái thành chủ nghĩa tự nhiên và bị lấn át bởi một số trào lưu văn học hiện đại khác, chủ nghĩa hiện thực vẫn khẳng định được sức sống của mình. Sang thế kỷ XX, nhiều biến thể của chủ nghĩa hiện thực như chủ nghĩa hiện thực mới, chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo, chủ nghĩa hiện thực cấu trúc, chủ nghĩa hiện thực tâm lý,… đã ra đời, cho thấy đây là một hiện tượng không ngừng vận động và phát triển. Vì những lẽ đó, chủ nghĩa hiện thực luôn chiếm một vị trí đáng kể trong lý luận văn học. Các nền lý luận văn học lớn trên thế giới đều dành sự quan tâm đặc biệt cho chủ nghĩa hiện thực. Tính đến nay, chủ nghĩa hiện thực đã ra đời gần 2 thế kỷ, nhưng vấn đề này vẫn gợi cảm hứng cho các nhà lý luận trong những công trình nghiên cứu cũng như trong các cuộc trao đổi, tranh luận. Tình hình nghiên cứu sôi động trên thế giới thời gian qua không cho phép các nhà nghiên cứu Việt Nam xem đây như một cái gì đã hoàn tất, mà phải liên tục nhận thức lại vấn đề để có được một cái nhìn sâu sắc, toàn diện và tiến bộ về chủ nghĩa hiện thực. Từ năm 1975 đến nay, xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi quan trọng. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu lý luận nói chung và chủ nghĩa hiện thực nói riêng cũng có những dấu hiệu mới. Nghiên cứu “Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay” là một cơ hội để chúng ta nhận diện, đánh giá vấn đề lý luận không mới này trong điều kiện, hoàn cảnh xã hội mới. 2. Lịch sử vấn đề: Từ khi xuất hiện trong lý luận văn học Việt Nam đến nay, chủ nghĩa hiện thực luôn là một vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu. Được giới thiệu trong nhiều công trình dịch thuật, có mặt trong những bộ giáo trình sử dụng chung cho cả nước, xuất hiện trên nhiều tạp chí, tờ báo quan trọng, trong các tập tiểu luận phê bình được đánh giá cao, là tâm điểm của nhiều cuộc tranh luận văn học, chủ nghĩa hiện thực đã và đang là một trong những vấn đề quan yếu của lý luận văn học Việt Nam. Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh về tình hình nghiên cứu chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam lại chưa được một công trình nào 5 quan tâm một cách toàn diện. Đáng kể nhất có thể kể đến là hai bài viết Một chặng đường phát triển của việc biên soạn giáo trình lý luận văn học của Nguyễn Phúc (trích trong Việt Nam nửa thế kỷ văn học (1945 – 1995) do Hữu Thỉnh chủ biên (nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1997) và Về việc biên soạn giáo trình lý luận bậc đại học ở ta năm mươi năm qua của Nguyễn Ngọc Thiện (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 5/2006). Hai bài viết này đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn chung về công việc biên soạn giáo trình lý luận văn học Việt Nam 50 năm qua, trong đó có chủ nghĩa hiện thực. Song, lý luận về chủ nghĩa hiện thực trong các chuyên khảo, tiểu luận từ trước đến nay lại chưa được tổng kết, đánh giá. Trong tình hình nghiên cứu chung đó, đáng mừng là việc khái quát tình hình nghiên cứu lý luận văn học từ 1975 đến nay có được quan tâm hơn. Trong cuốn Văn học Việt Nam sau 1975, Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (nxb. Giáo dục, 2006) do Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn đồng chủ biên, phần Những vấn đề chung, các tác giả đã tập hợp các bài viết của những nhà nghiên cứu tên tuổi Việt Nam như Phương Lựu, La Khắc Hòa, Nguyễn Nghĩa Trọng, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Văn Long,…Với những bài viết như Những vấn đề cơ bản đang đặt ra trong các cuộc tranh luận của giới văn học hiện nay, Ba mươi năm lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học – thành tựu và suy ngẫm, Những trăn trở tiến bước của lý luận văn học giai đoạn 1975 – 1985, Văn học Việt Nam trước và sau 1975 – nhìn từ yêu cầu phản ánh hiện thực, Sự phát triển của lý luận – phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và từ sau 1975 đến nay,… các nhà nghiên cứu đã cung cấp cho chúng ta những tư liệu về tình hình xã hội sau năm 1975 cũng như vai trò, diện mạo của lý luận văn học trong giai đoạn đó. Trong các ý kiến ấy, chúng ta có thể nhận ra những ý kiến về vấn đề mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cũng như vị trí của chủ nghĩa hiện thực. Sau thời kỳ đổi mới, tính từ Đại hội Đảng lần thứ VI tháng 12 năm 1986, việc đánh giá tình hình nghiên cứu lý luận nói chung và chủ nghĩa hiện thực nói riêng được quan tâm nhiều hơn. Với cuốn Trao đổi ý kiến - Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới (Nxb. Sự thật, 1991), Hà Minh Đức đã tập hợp các 6 bài viết về văn nghệ trong quá trình đổi mới. Những bài viết như Đổi mới và quy luật của Phan Cự Đệ, Văn học trên con đường đổi mới của Nguyễn Văn Hạnh, Đôi nét về một tư duy văn học đang hình thành của Nguyên Ngọc, Góp một cách nhìn tình hình văn nghệ hiện nay của Ngô Thảo, Đôi điều về sách văn học hôm nay của Vũ Tú Nam,…đã bước đầu đánh giá về những ưu, nhược của văn nghệ ta trên con đường đổi mới. Tương tự như vậy, những bài viết như Lý luận trước yêu cầu đổi mới và phát triển của Phan Trọng Thưởng (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 12/2004), Mấy ghi nhận về thành tựu của lý luận văn học trong thời kỳ đổi mới của Nguyễn Duy Bắc (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 1/2005) cũng không ngoài nội dung đó. Có điều, những bài viết này chủ yếu nhận định về tình hình nghiên cứu chung hơn là tình hình nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực. Chỉ với những bài viết như Suy nghĩ và kiến nghị xung quanh vấn đề đổi mới lý luận văn học của Phạm Vĩnh Cư (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 12/2004), Suy nghĩ về một vài hướng tìm tòi đổi mới trong văn học của Hà Minh Đức, (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4/2006), những suy nghĩ về tình hình nghiên cứu chủ nghĩa hiện thực mới được đề cập. Đặc biệt, trong công trình Về một số vấn đề lý luận văn nghệ cơ bản đang được tranh luận qua công cuộc đổi mới (1987 – 1992), vấn đề được trình bày tập trung hơn. Đây là một đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Lê Bá Hán làm chủ nhiệm, hoàn thành năm 1993. Công trình này đã dành chương 1 để bàn về vấn đề văn học phản ánh hiện thực. Các tác giả Trần Đình Sử và Lê Hồng Vân sau khi lược thuật các ý kiến khác nhau, đã đưa ra nhận định của mình về vấn đề này. Tuy nhiên, công trình này cũng chỉ tập trung vào tình hình nghiên cứu vấn đề văn học phản ánh hiện thực chứ không phải toàn bộ tình hình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện thực. Như vậy, có thể nói, nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay là một công việc chưa được đầu tư thực hiện một cách hệ thống, toàn diện. Bức tranh toàn cảnh về vấn đề này đang chờ đợi được phác vẽ nên. Bức tranh ấy sẽ giúp chúng ta thấy được mình đang ở đâu để có hướng đi đúng đắn trong hành trình phía trước. 7 3. Mục đích nghiên cứu: Là một vấn đề có thâm niên trong lý luận văn học thế giới, nhưng chủ nghĩa hiện thực mới có mặt trong lý luận văn học Việt Nam khoảng 50 năm trở lại đây. Trong thời gian này, cái nhìn về chủ nghĩa hiện thực không hề đứng yên, mà luôn có sự vận động, thay đổi, đặc biệt là từ năm 1975 đến nay. Nghiên cứu “Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay”, người viết luận văn này muốn tìm hiểu xem giới nghiên cứu Việt Nam đã tiếp nhận và nghiên cứu như thế nào về chủ nghĩa hiện thực, trước là để nắm bắt vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong giai đoạn mới, sau là để đánh giá những đóng góp cũng như những hạn chế của giới nghiên cứu Việt Nam trong thời gian qua trong việc nghiên cứu một vấn đề lý luận nói riêng và xây dựng, phát triển lý luận văn học nói chung. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: Thực hiện đề tài này, người viết chỉ quan tâm đến vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Các trào lưu, trường phái, phương pháp sáng tác khác nếu được nhắc đến chỉ đóng vai trò là một yếu tố tương tác, soi chiếu để làm rõ thêm vấn đề. Người viết cũng không đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa hiện thực thể hiện ở những tác giả và tác phẩm cụ thể mà chủ yếu khai thác những quan niệm, những bàn luận về chủ nghĩa hiện thực. Để thực hiện công việc đó, người viết sẽ tiến hành các thao tác nghiên cứu trên cơ sở dữ liệu là các bộ giáo trình, các tập tiểu luận, phê bình, chuyên khảo của các tác giả Việt Nam có liên quan đến vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong giai đoạn từ 1975 đến nay. Bên cạnh đó, người viết cũng sử dụng những công trình dịch thuật từ lý luận văn học nước ngoài được giới thiệu ở Việt Nam từ 1975 đến nay, với tư cách là kết quả của việc tiếp nhận và giới thiệu chủ nghĩa hiện thực của các nhà nghiên cứu Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện luận văn này, chúng tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp sau: Phương pháp lịch sử: tìm hiểu bối cảnh xã hội Việt Nam sau năm 1975 để thấy được sự tác động của hoàn cảnh lịch sử đối với các nhà nghiên cứu, trên cơ sở đó, tìm hiểu tình hình nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở 8 Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử từ 1975 đến nay, nhằm làm rõ sự vận động và phát triển của chủ nghĩa hiện thực. Phương pháp hệ thống: hệ thống hóa các quan điểm, ý kiến khác nhau về chủ nghĩa hiện thực thành những hướng nghiên cứu, những vấn đề nhất định để tiện theo dõi và đánh giá. Phương pháp so sánh: so sánh chủ nghĩa hiện thực với chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên,…, để có cái nhìn khách quan và đúng đắn về chủ nghĩa hiện thực; so sánh các giáo trình lý luận văn học về chủ nghĩa hiện thực với nhau để tìm điểm giống và khác nhau của các nhà lý luận khi nghiên cứu vấn đề này. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: Ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu “Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay” giúp chúng ta có cái nhìn lịch sử đối với một vấn đề lý luận văn học, nhìn thấy sự vận động của một lý thuyết đã được viết nên cách đây gần hai thế kỷ. Sự vận động ấy xuất phát từ thực tế nghiên cứu và đặc biệt là thực tế sáng tác văn học. Vì vậy, công việc này cũng thể hiện được mối quan hệ gắn bó giữa lý luận với thực tiễn, nhìn thấy tính thực tiễn và tiến bộ của lý luận. Hơn nữa, thực hiện đề tài này chính là đã quán triệt tinh thần của nguyên lý tính hệ thống. Lý luận văn học Việt Nam từ 1975 đến nay là một bộ phận của lý luận văn học Việt Nam, lý luận văn học ở Việt Nam là một bộ phận của lý luận văn học thế giới. Tìm hiểu cái bộ phận chính là góp phần tìm hiểu cái toàn thể. Hiểu biết chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay cũng là con đường dẫn đến hiểu biết chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học thế giới. Ý nghĩa thực tiễn: Nền lý luận văn học Việt Nam còn khá non trẻ so với lý luận văn học thế giới. Thời gian từ 1975 đến nay đã cho thấy sự nỗ lực vươn lên của lý luận văn học Việt Nam để bắt kịp với sự tiến bộ chung. Kịp thời ghi nhận những thành tựu cũng như những hạn chế của sự nỗ lực đó sẽ giúp cho lý luận văn học Việt Nam rút ngắn khoảng cách với các nền lý luận văn học tiên tiến. Trong lý luận văn học Việt Nam, chủ nghĩa hiện thực là một vấn đề có tính chất quan trọng hàng đầu. Những ý kiến, đánh giá mới đây về chủ nghĩa hiện thực cần được xem xét kỹ lưỡng 9 để nắm bắt được quan niệm của giới nghiên cứu trong giai đoạn mới về vấn đề này. Thực tiễn sáng tác hiện nay ngày càng phong phú và phức tạp, kết quả đánh giá quá trình đổi mới lý luận thời gian qua của luận văn sẽ giúp cho việc tiếp nhận tác phẩm văn học dễ dàng và hiệu quả hơn. 7. Cấu trúc của luận văn: Luận văn gồm 3 phần: Phần mở đầu Các chương: Chương 1: Tình hình nghiên cứu chung về vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay Chương 2: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong các giáo trình lý luận văn học Việt Nam từ 1975 đến nay Chương 3: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong các tiểu luận, chuyên khảo về lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay Phần kết luận 10 Chương 1 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CHUNG VỀ VẤN ĐỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG LÝ LUẬN VĂN HỌC Ở VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY 1.1. Cơ sở xã hội và tư tưởng: 1.1.1. Cơ sở xã hội: Từ xưa đến nay, như đã thành một quy luật, hễ lịch sử có sự thay đổi thì trong văn học nhất định cũng có những đổi thay. Chứng kiến sức ảnh hưởng lớn lao của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại đối với văn học dân tộc chưa lâu, nay, chúng ta lại chứng kiến thêm một lần nữa sự rúng động ấy trong văn học sau Đại thắng mùa xuân năm 1975. Hãy bắt đầu sự thay đổi ấy từ chính thời cuộc. Trong cuốn “Một số vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy ngữ văn ở trường THPT”, tình hình xã hội ấy đã được nhận định như sau: “Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ thắng lợi, đất nước mở sang trang sử mới. Từ sau năm 1975, đất nước từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, cuộc sống hiện ra với tất cả mặt phức tạp vốn có của nó. Đây là thời kỳ giao thoa giữa cái mới và cái cũ. Cái cũ vẫn còn tồn tại, cái mới cũng chỉ vừa manh nha. Cả hai yếu tố thuận và nghịch của đời sống kinh tế - xã hội đều tác động đến văn học. Những khó khăn và khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối những năm 70 đầu những năm 80, tính chất phức tạp và sự chi phối của kinh tế thị trường đẩy tới sự phân cực giữa trắng đen, thiện ác, tốt xấu” [100, tr.5]. Có thể nói, đó mới chỉ là một nhận định khái quát về tình hình xã hội sau khi hòa bình lặp lại. Thực tế phức tạp hơn nhiều. Vừa ngất ngây trong men chiến thắng bước ra, nhân dân ta đã phải đối mặt ngay với bao khó khăn thử thách trước mắt. Đất nước bị chiến tranh tàn phá 11 nặng nề, những tàn dư của chế độ cũ chưa thể xóa sạch trong một ngày một buổi, nhiều thế lực phản động không ngừng chống phá, chỗ dựa vững chãi cho đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đã không còn sau sự sụp đổ của Liên Xô, nền kinh tế bị kiệt quệ và đứng trước nguy cơ khủng hoảng trầm trọng, nhiều chủ trương, chính sách sai lầm làm giảm lòng tin đối với Đảng và Nhà nước,… Là chủ thể của một môi trường phức tạp như vậy, con người chắc hẳn sẽ có sự phân hóa, đặc biệt là sự phân hóa từ bê