Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là con người, là nguồn nhân lực người Việt Nam được phát triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Việc này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông.
79 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1532 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng dạy học theo chủ đề trong dạy học chương “từ vi mô đến vĩ mô” lớp 12 trung học phổ thông ban nâng cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
---------------------------------------
Nguyễn Uy Đức
VẬN DỤNG DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ
TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG “TỪ VI MÔ ĐẾN
VĨ MÔ” LỚP 12 THPT BAN NÂNG CAO
Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học môn Vật lý
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THẾ DÂN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình từ nhiều phía.
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả mọi người đã giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Phạm Thế Dân, người đã tận tình
hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu trường ĐHSP Tp.HCM, phòng KHCN
& SĐH và các thầy cô khoa Vật lý đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu trường THPT Chuyên NK TDTT
Nguyễn Thị Định và các HS hai lớp 12A3, 12A5 đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn
thành giai đoạn thực nghiệm sư phạm của luận văn.
Và cuối cùng xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã giúp
đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan luận văn này là do chính tôi thực hiện và là của riêng tôi chứ
không lấy của người khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật nếu
những lời trên không đúng sự thật.
MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm
2020 Việt Nam sẽ từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành nước công nghiệp, hội nhập với
cộng đồng quốc tế. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế là con người, là nguồn nhân lực người Việt Nam được phát triển về số lượng và
chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Việc này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ
thông. Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khóa 10 về đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định mục tiêu của đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông lần này là: “Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ
thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…” [18, trang 3]
Một trong những trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông
là tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ
động của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn đúng mực của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc
lập, sáng tạo, góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo
niềm tin và niềm vui trong học tập cho học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu cấp bách đã được Đảng ta chỉ rõ trong nghị
quyết Trung ương (TW) 2 khoá VIII (12/1996), trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
(4/2001) và gần nhất là văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4/2006) đã khẳng định: “Đổi
mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp; ưu tiên
hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học; đổi mới phương pháp dạy và học; phát huy khả
năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh…”[7, trang 10]
Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học , việc vận dụng một cách sáng tạo các chiến
lược dạy học tiên tiến trên thế giới vào thực tiễn giáo dục Việt Nam có thể là con đường thích hợp.
Tuy nhiên việc đổi mới theo phương pháp cụ thể nào thì phải lựa chọn cho phù hợp với từng đối
tượng con người và nội dung dạy học.
Môi trường tôi đang giảng dạy với đa số là các học sinh có sức học trung bình và yếu, các em
còn quen với cách dạy học truyền thống. Chính vì vậy tôi quyết định chọn lựa một phương pháp dạy
học theo quan điểm hiện đại nhưng không quá xa so với phương pháp dạy học truyền thống để học
sinh từng bước làm quen, thích ứng được với các phương pháp dạy học tích cực.
Qua quá trình tìm hiểu tôi nhận thấy rằng, dạy học theo chủ đề giúp học sinh tập trung sự chú
ý vào đối tượng, dễ dàng hiểu được các vấn đề giáo viên trình bày, định hướng tốt nội dung bài học,
dễ tiếp thu thông tin, do đó có thể rút ngắn được thời gian trình bày của giáo viên. Hơn thế nữa nếu
sử dụng dạy học theo chủ đề để giảng dạy chương “Từ vi mô đến vĩ mô” lớp 12 THPT ban Nâng
cao _ một chương với những kiến thức rất trừu tượng về các hạt sơ cấp, hệ Mặt Trời, các thiên hà,
sự chuyển động của thế giới vĩ mô và sự tiến hóa của các sao _ sẽ góp phần thay đổi không khí học
tập, lôi cuốn học sinh tham gia tích cực vào bài giảng, làm cho lớp học năng động, không buồn tẻ,
học sinh dễ dàng ghi nhận kiến thức một cách có hệ thống, không nhồi nhét, quá tải.
Với tất cả những lý do đã trình bày ở trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Vận dụng dạy học
theo chủ đề trong dạy học chương “Từ vi mô đến vĩ mô” lớp 12 THPT ban Nâng cao”
làm đề tài nghiên cứu.
2- Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những quan điểm lý luận của dạy học theo chủ đề và vận dụng vào việc giảng
dạy chương “Từ vi mô đến vĩ mô” lớp 12 THPT ban Nâng cao nhằm góp phần đổi mới phương
pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở trường THPT.
3- Khách thể và đối tượng nghiên cứu
− Khách thể: Học sinh lớp 12 trường THPT Chuyên NK TDTT Nguyễn Thị Định, Quận 8, TP.Hồ
Chí Minh trong quá trình học tập chương “Từ vi mô đến vĩ mô” ban Nâng cao.
− Đối tượng nghiên cứu: Nội dung và phương pháp dạy học chương “Từ vi mô đến vĩ mô” lớp 12
THPT ban Nâng cao theo phương pháp dạy học theo chủ đề.
4- Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng thành công các quan điểm của dạy học theo chủ đề vào giảng dạy chương “Từ
vi mô đến vĩ mô” lớp 12 THPT ban Nâng cao thì sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh và nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Vật
lý ở trường phổ thông.
5- Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu sự vận dụng dạy học theo chủ đề trong dạy học chương “Từ vi mô đến vĩ mô”
lớp 12 THPT ban Nâng cao tại trường THPT Chuyên NK TDTT Nguyễn Thị Định, Quận 8, TP.Hồ
Chí Minh.
6- Nhiệm vụ nghiên cứu
− Nghiên cứu cơ sở lý luận về đổi mới phương pháp dạy học.
− Nghiên cứu cơ sở lý luận của dạy học theo chủ đề.
− Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa Vật lí 12 THPT ban Nâng cao.
− Nghiên cứu khả năng ứng dụng một số phần mềm máy tính và Internet trong việc thiết kế chủ đề
học tập.
− Nghiên cứu, thiết kế chủ đề học tập chương “Từ vi mô đến vĩ mô” lớp 12 THPT ban Nâng cao.
− Tiến hành thực nghiệm sư phạm dạy học chương “Từ vi mô đến vĩ mô” lớp 12 THPT ban Nâng
cao theo phương pháp dạy học theo chủ đề tại trường THPT Chuyên NK TDTT Nguyễn Thị
Định Quận 8, TP.Hồ Chí Minh.
7- Phương pháp nghiên cứu
− Nghiên cứu lý luận:
+ Nghiên cứu các văn kiện của Đảng về đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy
học.
+ Nghiên cứu tài liệu về giáo dục học và phương pháp giảng dạy vật lý.
+ Nghiên cứu cơ sở lí luận của dạy học theo chủ đề.
+ Nghiên cứu tài liệu hướng dẫn sử dụng một số phần mềm hỗ trợ dạy học.
+ Nghiên cứu chương trình vật lý 12 THPT.
+ Nghiên cứu, khai thác các tài liệu liên quan đến việc thiết kế các chủ đề học tập.
+ Thiết kế tiến trình dạy học theo chủ đề chương “Từ vi mô đến vĩ mô” lớp 12 THPT ban
Nâng cao.
+ Nghiên cứu, thiết kế bài giảng điện tử hỗ trợ các chủ đề dạy học.
− Thực nghiệm sư phạm:
+ Chọn mẫu và dạy thực nghiệm tại trường THPT Chuyên NK TDTT Nguyễn Thị Định,
Quận 8, TP.HCM.
+ Sử dụng phương pháp thống kê toán học để trình bày kết quả thực nghiệm sư phạm và
kiểm định giả thuyết thống kê về sự khác biệt trong kết quả học tập của hai nhóm: nhóm
thực nghiệm và nhóm đối chứng.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ
1.1. Những định hướng chung của việc đổi mới PPDH Vật lý THPT
1.1.1. Mục tiêu giáo dục môn học Vật lý THPT ở Việt Nam hiện nay
Mục tiêu giáo dục là một hệ thống các chuẩn mực của mẫu hình nhân cách cần hình thành ở
một đối tượng người được giáo dục nhất định. Đó chính là một hệ thống cụ thể các yêu cầu xã hội
trong mỗi thời đại, trong từng giai đoạn xác định đối với nhân cách một loại đối tượng giáo dục.
Mục tiêu giáo dục thay đổi theo từng giai đoạn của lịch sử phát triển xã hội nên mục tiêu giáo dục
của nhà trường và mục tiêu của hoạt động dạy học vật lý cũng phải bám sát và có những điều chỉnh,
sửa đổi thích hợp.
Mục tiêu giáo dục môn học Vật lý THPT ở Việt Nam hiện nay được cụ thể hoá như sau: [1], [2],
[3]
• Mục tiêu kiến thức:
Đạt được một hệ thống kiến thức vật lý phổ thông, cơ bản và phù hợp với những quan điểm
hiện đại, bao gồm:
− Các khái niệm về các sự vật, hiện tượng và quá trình vật lý thường gặp trong đời sống và
trong kỹ thuật.
− Các đại lượng, các định luật và các nguyên lí vật lý cơ bản.
− Những nội dung chính của một số thuyết vật lý quan trọng nhất.
− Những ứng dụng phổ biến của vật lý trong đời sống và trong sản xuất.
− Các phương pháp chung của nhận thức khoa học và những phươ ng pháp đặc thù của vật
lý, trước hết là phương pháp thực nghiệm và phương pháp mô hình.
• Mục tiêu kỹ năng:
− Biết quan sát các hiện tượng và các quá trình vật lý trong tự nhiên, trong đời sống hàng
ngày hoặc trong các thí nghiệm; biết điều tra, sưu tầm, tra cứu tài liệu từ các nguồn khác
nhau để thu thập thông tin cần thiết cho việc học tập môn Vật lý.
− Sử dụng được các dụng cụ đo phổ biến của vật lý, có kỹ năng lắp ráp và tiến hành các thí
nghiệm vật lý đơn giản.
− Biết phân tích, tổng hợp và xử lý các thông tin thu được để rút ra kết luận, đề ra các dự
đoán đơn giản về các mối quan hệ hay về bản chất của các hiện tượng, hoặc quá trình vật
lý, cũng như đề xuất phương án thí nghiệm để kiểm tra dự đoán đã đề ra.
− Vận dụng được kiến thức để mô tả và giải thích các hiện tượng và quá trình vật lý, giải
các bài tập vật lý và giải quyết các vấn đề đơn giản trong đời sống và sản xuất ở mức độ
phổ thông.
− Sử dụng được các thuật ngữ vật lý, các biểu, bảng, đồ thị để trình bày rõ ràng, chính xác
những hiểu biết, cũng như những kết quả thu được qua thu thập và xử lý thông tin.
• Mục tiêu thái độ:
− Có hứng thú học vật lý, yêu thích tìm tòi khoa học; trân trọng với những đóng góp của
Vật lý học cho sự tiến bộ của xã hội và đối với công lao của các nhà khoa học.
− Có thái độ khách quan, trung thực; có tác phong tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác và có tinh thần
hợp tác trong việc học tập môn vật lý, cũng như trong việc áp dụng các hiểu biết đã đạt
được.
− Có ý thức vận dụng các hiểu biết vật lý vào đời sống nhằm cải thiện điều kiện sống, học
tập cũng như để bảo vệ và giữ gìn môi trường sống tự nhiên.
1.1.2. Những khó khăn gặp phải trong quá trình đổi mới PPDH Vật lý THPT [1], [2], [3]
Để thực hiện được mục tiêu đổi mới giáo dục, phải giải quyết đồng bộ rất nhiều mặt. Riêng
về mặt phương pháp giáo dục, những định hướng đổi mới PPDH đã được đề cập trong các nghị
quyết TW4 khoá VII (1/1993), TW2 khoá VIII (12/1996), trong luật giáo dục (12/1998), trong nghị
quyết của Quốc hội khoá X (12/2000), văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001), X
(4/2006), trong các chỉ thị và quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo… Tinh thần cơ bản của việc
đổi mới này là: Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS trong học tập.
Tuy nhiên, có thể nói việc đổi mới PPDH ở bậc THPT nói chung và PPDH Vật lý THPT nói
riêng còn đang trì trệ; PPDH hầu như chưa có bước đổi mới nào đáng kể; thậm chí người ta chưa
xây dựng được những tiêu chí của một bài học dạy theo tinh thần đổi mới. Nguyên nhân của tình
trạng này có thể có nhiều:
- Người ta chưa thấy được sự cấp thiết phải đổi mới PPDH. Nhiều người cho rằng cứ dạy tốt
theo phương pháp cũ cũng có thể truyền tải hết nội dung kiến thức SGK cho HS và đảm bảo được tỷ
lệ HS tốt nghiệp phổ thông và đỗ đại học cao, như thế là việc dạy học đã có kết quả tốt.
- Cũng có nhiều người quan niệm việc đổi mới PPDH chẳng qua cũng như việc cải tiến PPDH
mà ta vẫn tiến hành lâu nay, là việc sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại như máy chiếu overhead,
máy vi tính, máy chiếu, thí nghiệm ảo… trong giờ dạy. Họ chưa thực sự t hấy được sự khác biệt căn
bản giữa mục tiêu của việc dạy học chúng ta kỳ vọng hiện nay và mục tiêu của việc dạy học trước
đây.
- Một khó khăn rất lớn ảnh hưởng đến việc đổi mới PPDH Vật lý THPT là khối lượng kiến
thức của chương trình quá lớn trong khi thời lượng dành cho mỗi môn học lại quá hạn chế. Điều này
hoàn toàn không thuận lợi cho việc tổ chức dạy học theo phương pháp mới.
- Một khó khăn của nhà trường THPT hiện nay mà ta không thể không kể đến là sĩ số HS của
một lớp học quá đông. Ở nhiều trường THPT lớn của các thành phố, số HS của mỗi lớp có thể lên
đến 40, 50 HS một lớp. Số lượng HS này lớn gấp đôi hoặc gấp ba lần số HS của một lớp học cùng
cấp của các nước trên thế giới. Với những lớp đông như vậy, việc quản lý trật tự của lớp trong một
tiết học đã là khó khăn, nói gì đến việc tổ chức cho HS hoạt động để chiếm lĩnh tri thức.
- Một khó khăn không nhỏ cản trở việc đổi mới PPDH nữa là thiết bị thí nghiệm của các
trường phổ thông rất nghèo nàn, trường lớp được xây dựng theo các quy cách cổ hủ, không thuận
lợi cho việc tổ chức cho HS hoạt động trong tiết học.
- Một khó khăn gián tiếp nhưng ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình đổi mới PPDH ở THPT là
cách đánh giá kết quả học tập, thi cử. Hiện nay, mục đích của các kỳ thi chỉ nhằm xem HS có nắm
vững các kiến thức sách vở, có giải được các bài toán khó hay không? Xã hội chưa có cách nào
kiểm tra xem khi tốt nghiệp THPT HS đã được trang bị đủ các kĩ năng cần thiết, tối thiểu cho cuộc
sống hay chưa?
- Cuối cùng là cách thức các cơ quan chỉ đạo và tập thể GV đánh giá việc giảng dạy của đồng
nghiệp cũng không thật thuận lợi cho việc đổi mới PPGD. Chẳng hạn, khi dự giờ thao giảng, nhiều
người chỉ chăm chú xem GV dạy chính xác hay không, có đặt nhiều câu hỏi hay không, có bị cháy
giáo án hay không?... Ít người chú ý phân tích xem cách thức mà GV tổ chức cho HS hoạt động học
tập trong tiết học có phù hợp hay không? Hiệu quả dạy học của tiết học cao hay thấp?
Trên đây là một số nguyên nhân ảnh hưởng đến tiến trình đổi mới PPD H ở bậc THPT nói
chung và PPDH Vật lý THPT nói riêng. Có thể còn nhiều nguyên nhân khác nữa mà ta chưa nêu lên
được. Tuy việc đổi mới còn nhiều khó khăn và việc khắc phục các khó khăn không thể thực hiện
một cách dễ dàng trong một sớm một chiều nhưng tình thế vẫn buộc chúng ta phải tìm cách đổi mới
PPDH.
1.1.3. Những định hướng đổi mới PPDH Vật lý THPT [1], [2], [3]
1. Sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống theo tinh thần phát huy tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của HS.
Trong việc đổi mới PPDH, ta không phủ định vai trò của các PPDH truyền thống, tuy nhiên
ta sẽ sử dụng các phương pháp đó theo tinh thần mới. GV phải lựa chọn PPDH theo một chiến lược
nhằm phát huy được ở mức độ tốt nhất tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong những tình
huống cụ thể.
Ví dụ: Phương pháp cho HS làm việc với SGK.
- Trong PPDH thụ động, việc cho HS đọc SGK chỉ nhằm mục đích ghi nhớ, thuộc lòng cả nội
dung và cách phát biểu những kết luận mà ta muốn chốt lại.
- Trong PPDH tích cực, việc cho HS đọc SGK coi như một hoạt động thu thập thông tin.
Thông tin này, sau đó phải được HS xử lý để rút ra các kết luận cần thiết.
Trong việc dạy học truyền thống, GV thường hay sử dụng kết hợp nhiều phương pháp thuộc
các nhóm khác nhau. Việc thay đổi PPDH không những có tác dụng khắc sâu được kiến thức, kỹ
năng mà HS cần chiếm lĩnh mà còn có tác dụng làm cho tiết học đỡ nhàm chán, tạo thêm hứng thú
học tập cho HS. Như vậy, trước hết có thể đổi mới PPDH bằng cách tổ chức việc dạy học sử dụng
linh hoạt các PPDH truyền thống nhằm tích cực hóa hoạt động của HS.
2. Chuyển từ phương pháp chủ yếu là diễn giảng của GV, sang phương pháp chủ yếu là tổ chức
cho HS hoạt động để tự lực chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng.
Theo quan niệm cũ về việc dạy học thì GV là người truyền thụ kiến thức, còn HS là người
tiếp thu kiến thức. PPDH phổ biến hiện nay là phương pháp giảng giải, minh họa; trong nhiều
trường hợp, do những khó khăn về thiết bị thí nghiệm, khâu minh họa cụ thể đã bị bỏ qua. Có thể
thay thế việc làm vô nghĩa đó, chẳng hạn bằng cách cho HS đọc và nghiền ngẫm SGK, rồi sau đó
đặt những câu hỏi kiểm tra sự lĩnh hội của các em. Làm như vậy, không những có điều kiện rèn
luyện cho các em kỹ năng đọc sách, diễn đạt ý kiến mà ta còn thu nhận được thông tin phản hồi về
học lực của HS.
Theo quan niệm mới về việc dạy học, vai trò chính yếu của GV là tổ chức và hướng dẫn các
hoạt động của HS, sao cho HS có thể tự lực chiếm lĩnh được kiến thức và kĩ năng mới. Đó là vì các
kiến thức, kĩ năng và thái độ ứng xử chỉ có thể hình thành được ở mỗi con người bằng những hoạt
động tìm tòi, khám phá, nghiền ngẫm, trao đổi và giao tiếp của chính con người đó. Do đó, trong tiết
dạy học đổi mới, ta cần quan tâm xem HS hoạt động học như thế nào, các em đã thu hoạch được
những giá trị gì? Diễn viên chính của lớp học phải là HS, còn GV chỉ đóng vai trò của người đạo
diễn. Trong giờ học, mọi HS đều làm việc hết sức căng thẳng để thu thập thông tin phản hồi và điều
khiển kịp tời hoạt động của HS. Việc đổi mới phương pháp dạy của thầy đi đôi với việc đổi mới
phương pháp học của trò. Trong nhà trường phả i bắt đầu huấn luyện cho các em tính tích cực, chủ
động, sáng tạo trong hoạt động học tập.
Việc tổ chức hoạt động học tập của HS trong một tiết học phải được tiến hành một cách hết
sức linh hoạt để tránh sự đơn điệu, nhàm chán. Khó khăn lớn nhất đối với việc đổi mới PPDH theo
hướng này là vấn đề khối lượng kiến thức và thời gian dạy học. Để giải quyết những khó khăn này,
đòi hỏi phải có sự cân nhắc kĩ lưỡng của GV giữa việc tổ chức cho HS hoạt động học tập trên lớp,
việc thuyết giảng của GV và việc tổ chức cho HS tự học ở nhà.
Chúng ta cần tiến hành từng bước, đổi mới dần từng hoạt động trên lớp để không những GV
quen dần với PPDH dựa trên nguyên tắc tổ chức cho HS hoạt động, mà còn để HS chuyển dần từ
thói quen học tập thụ động sang thói quen học tập tích cực, sáng tạo.
3. Tăng cường học tập cá nhân, phối hợp một cách hài hòa với học tập hợp tác.
Các hình thức tổ chức học tập cá nhân, theo nhóm và theo lớp là các hình thức học tập vẫn
được áp dụng trong các PPDH truyền thống. Trong các hình thức trên, hình thức học tập cá nhân lâu
nay vẫn được coi là hình thức học tập cơ bản, có hiệu quả nhất. Các hình thức học tập theo nhóm và
theo lớp là các hình thức hỗ trợ.
Theo tinh thần của các PPDH tích cực, hình thức học tập cá nhân vẫn là hình thức học tập cơ
bản. Tuy nhiên, GV phải tìm cách kích thích được hứng thú học tập, làm cho HS học tập một cách
tự giác, chủ động, từ đó phát huy được tính sáng tạo của mỗi cá thể trong học tập. Các hình thức học
tập hợp tác không những góp phần làm cho việc học tập cá nhân có hiệu quả hơn mà còn có tác
dụng rèn luyện cho HS tinh thần hợp tác trong lao động, thái độ chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi lẫn
nhau, ý thức trách nhiệm trong công việc chung. Mặt khác, trong việc học tập theo nhóm, tất cả mọi
HS đều có thể trình bày ý kiến của mình, tức là có điều kiện để tự thể hiện mình. Điều này có tác
dụng kích thích rất mạnh hứng thú học tập của HS.
Hiện nay, nảy sinh xu thế ngược lại là “Hội chứng hoạt động nhóm”. Điều này dẫn đến việc
dạy học theo nhóm một cách tràn lan, hình thức, lãng phí thời gian và không có hiệu quả. Cần chú ý
rằng trong mọi PPGD, hình thức học tập cá nhân vẫn là hình thức hoạt động chủ yếu giúp cho việc
phát triển năng lực của mỗi HS, các PPDH tích cực đều chỉ nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động nhận
thức của mỗi cá thể.
4. Coi trọng việc bồi dưỡng phương pháp tự học.
Một