1.1. Trong những năm gần đây, phân môn tiếng Việt đã thể hiện đƣợc vai trò rất
quan trọng ở các bậc giáo dục phổ thông. Ngày càng có nhiều các luận văn, luận
án quan tâm nghiên cứu tiếng Việt và phƣơng pháp dạy học tiếng Việt . Quá trình
dạy học tiếng Việt là một quá trình dạy học có hệ thống theo từng cấp độ của các
đơn vị ngôn ngữ từ các âm vị, hình vị đến từ, ngữ, câu, văn bản. T rong đó dạy câu
là khâu rất quan trọng, đóng vai trò quyết định trong việc hình thành cho học sinh
kỹ năng nói và viết. Những yêu cầu cơ bản của việc dạy câu là dạy viết câu hay,
đúng ngữ pháp, đúng chính tả,. Song tất cả đều phải hƣớng đến mục tiêu quan
trọng nhất là dạy viết câu diễn đạt đƣợc mục đích giao tiếp, hƣớng vào hoạt động
giao tiếp.
1.2. Muốn đạt đƣợc hiệu quả giao tiếp trong đặt câu không phải đơn giản chỉ dừng
lại ở việc viết các câu riêng lẻ, độc lập, đúng ngữ pháp vì hoạt động giao tiếp
không thực hiện bằng các câu đơn lẻ mà thực hiện bằng ngôn bản - một chỉnh thể
lớn hơn câu . Mu ốn vậy phải viết các câu sao cho chúng có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Nghĩa là phải có kỹ năng viết câu đảm bảo tính liên kết.
1.3. Để đảm bảo đƣợc sự liên kết giữa các câu cần phải triển khai câu theo yêu cầu
của nhiều mặt liên kết khác nhau đó là liên kết nội dung và liên kết hình thức.
Thiếu một trong hai mặt liên kết này văn bản sẽ chỉ là các câu rời rạc, không có
giá trị giao tiếp. Bấy lâu nay, cách phân tích câu cơ bản vẫn là dựa trên quan điểm
ngữ pháp hình thức (kết cấu chủ - vị) điều đó chỉ cho thấy rõ mặt liên kết hình
thức bề ngoài của các câu. Vận dụng quan điểm ngữ pháp chức năng về lý thuyết
đề thuyết sẽ cho thấy rõ hơn sự liên kết giữa các câu trong văn bản trên cả bình
diện nội dung và hình thức. Một trong những biện pháp để đảm bảo các yêu cầu
liên kết nêu trên là phải biết lựa chọn trật tự sắp xếp các bộ phận câu, lựa chọn các
kiểu câu trong văn bản sao cho văn bản liền mạch (có tính liên kết).
1.4. Nhằm dạy học sinh luyện câu theo hƣớng trên, Sách giáo khoa Ngữ văn 11,
tập 1 đƣa vào chƣơng trình chùm bài học thực hành về lựa chọn trật tự các bộ
phận câu và sử dụng các kiểu câu trong văn bản. Đó là hai bài học thực hành kiểu
mới nhƣng rất có tác dụng trong việc hình thành cho học sinh năng lực viết câu và
tạo lập văn bản sao cho đảm bảo tính liên kết. Đặc điểm của hai bài học này là bài
luyện tập thực hành, nó đòi hỏi giáo viên cùng lúc vừa phải hệ thống hoá kiến
thức cũ, vừa phải tổ chức các hoạt động thực hành và hình thành cho học sinh các
kỹ năng trong chính quá trình thực hành đó. Những yêu cầu đặc biệt nhƣ trên đã
khiến không ít giáo viên gặp khó khăn trong quá trình chuẩn bị bài giảng, lúng
túng trong tổ chức giờ học. Các em học sinh cũng còn bỡ ngỡ với những hình thức
hoạt động trong giờ thực hành.Vì thế rất cần có những công trình khoa học nghiên
cứu cụ thể về vấn đề liên kết đề thuyết và đƣa ra các cách thức tổ chức dạy học để
giúp giáo viên cũng nhƣ học sinh thực hiện hiệu quả các bài học này.
Xuất phát từ quan điểm khoa học và nhu cầu thực tiễn dạy học nói trên
chúng tôi chọn đề tài cho luận văn của mình là “Vận dụng liên kết đề thuyết
giữa các câu vào việc tổ chức dạy học lựa chọn trật tự sắp xếp các bộ
phận câu, các kiểu câu trong văn bản cho học sinh lớp 11 THPT ”.
114 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1598 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng liên kết đề thuyết giữa các câu vào việc tổ chức dạy học lựa chọn trật tự sắp xếp các bộ phận câu, các kiểu câu trong văn bản cho học sinh lớp 11 trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
®¹i häc th¸i nguyªn
tr•êng ®¹i häc s• ph¹m
-------------- --------------
BÕ V¢N TRµ
VËN DôNG LI£N KÕT §Ò THUYÕT GI÷A C¸C C¢U VµO VIÖC Tæ CHøC D¹Y HäC
LùA CHäN TRËT Tù S¾P XÕP C¸C Bé PHËN C¢U, C¸C KIÓU C¢U TRONG
V¡N B¶N CHO HäC SINH LíP 11 THPT
LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc GIÁO DỤC
Th¸i Nguyªn, n¨m 2009
®¹i häc th¸i nguyªn
tr•êng ®¹i häc s• ph¹m
-------------- --------------
BÕ V¢N TRµ
VËN DôNG LI£N KÕT §Ò THUYÕT GI÷A C¸C C¢U VµO VIÖC Tæ CHøC D¹Y HäC
LùA CHäN TRËT Tù S¾P XÕP C¸C Bé PHËN C¢U, C¸C KIÓU C¢U TRONG
V¡N B¶N CHO HäC SINH LíP 11 THPT
Chuyªn ngµnh: Lý luËn vµ ph•¬ng ph¸p d¹y häc V¨n vµ tiÕng ViÖt
Mã số : 60.14.10
LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Lê A
Th¸i Nguyªn, n¨m 2009
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Lê A
Phản biện 1: ...........................................
................................................................
Phản biện 2:…………………………….
................................................................
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn họp tại:
Trường Đại học Sư Phạm - ĐHTN
Ngày tháng năm 2009
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên
Phản biện 1: ...............................................
....................................................................
Phản biện 2: ................................................
....................................................................
Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn họp tại:
Trường Đại học Sư Phạm - ĐHTN
Ngày tháng năm 2009
Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------- --------------
BẾ VÂN TRÀ
VẬN DỤNG LIÊN KẾT ĐỀ THUYẾT GIỮA CÁC CÂU
VÀO VIỆC TỔ CHỨC DẠY HỌC LỰA CHON TRẬT TỰ
SẮP XẾP CÁC BỘ PHẬN CÂU, CÁC KIỂU CÂU TRONG
VĂN BẢN CHO HỌC SINH LỚP 11 THPT
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Văn và tiếng Việt
M· sè : 60.14.10
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong những năm gần đây, phân môn tiếng Việt đã thể hiện đƣợc vai trò rất
quan trọng ở các bậc giáo dục phổ thông. Ngày càng có nhiều các luận văn, luận
án quan tâm nghiên cứu tiếng Việt và phƣơng pháp dạy học tiếng Việt . Quá trình
dạy học tiếng Việt là một quá trình dạy học có hệ thống theo từng cấp độ của các
đơn vị ngôn ngữ từ các âm vị, hình vị đến từ, ngữ, câu, văn bản. Trong đó dạy câu
là khâu rất quan trọng, đóng vai trò quyết định trong việc hình thành cho học sinh
kỹ năng nói và viết. Những yêu cầu cơ bản của việc dạy câu là dạy viết câu hay,
đúng ngữ pháp, đúng chính tả,... Song tất cả đều phải hƣớng đến mục tiêu quan
trọng nhất là dạy viết câu diễn đạt đƣợc mục đích giao tiếp, hƣớng vào hoạt động
giao tiếp.
1.2. Muốn đạt đƣợc hiệu quả giao tiếp trong đặt câu không phải đơn giản chỉ dừng
lại ở việc viết các câu riêng lẻ, độc lập, đúng ngữ pháp vì hoạt động giao tiếp
không thực hiện bằng các câu đơn lẻ mà thực hiện bằng ngôn bản - một chỉnh thể
lớn hơn câu. Muốn vậy phải viết các câu sao cho chúng có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Nghĩa là phải có kỹ năng viết câu đảm bảo tính liên kết.
1.3. Để đảm bảo đƣợc sự liên kết giữa các câu cần phải triển khai câu theo yêu cầu
của nhiều mặt liên kết khác nhau đó là liên kết nội dung và liên kết hình thức.
Thiếu một trong hai mặt liên kết này văn bản sẽ chỉ là các câu rời rạc, không có
giá trị giao tiếp. Bấy lâu nay, cách phân tích câu cơ bản vẫn là dựa trên quan điểm
ngữ pháp hình thức (kết cấu chủ - vị) điều đó chỉ cho thấy rõ mặt liên kết hình
thức bề ngoài của các câu. Vận dụng quan điểm ngữ pháp chức năng về lý thuyết
đề thuyết sẽ cho thấy rõ hơn sự liên kết giữa các câu trong văn bản trên cả bình
diện nội dung và hình thức. Một trong những biện pháp để đảm bảo các yêu cầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
liên kết nêu trên là phải biết lựa chọn trật tự sắp xếp các bộ phận câu, lựa chọn các
kiểu câu trong văn bản sao cho văn bản liền mạch (có tính liên kết).
1.4. Nhằm dạy học sinh luyện câu theo hƣớng trên, Sách giáo khoa Ngữ văn 11,
tập 1 đƣa vào chƣơng trình chùm bài học thực hành về lựa chọn trật tự các bộ
phận câu và sử dụng các kiểu câu trong văn bản. Đó là hai bài học thực hành kiểu
mới nhƣng rất có tác dụng trong việc hình thành cho học sinh năng lực viết câu và
tạo lập văn bản sao cho đảm bảo tính liên kết. Đặc điểm của hai bài học này là bài
luyện tập thực hành, nó đòi hỏi giáo viên cùng lúc vừa phải hệ thống hoá kiến
thức cũ, vừa phải tổ chức các hoạt động thực hành và hình thành cho học sinh các
kỹ năng trong chính quá trình thực hành đó. Những yêu cầu đặc biệt nhƣ trên đã
khiến không ít giáo viên gặp khó khăn trong quá trình chuẩn bị bài giảng, lúng
túng trong tổ chức giờ học. Các em học sinh cũng còn bỡ ngỡ với những hình thức
hoạt động trong giờ thực hành.Vì thế rất cần có những công trình khoa học nghiên
cứu cụ thể về vấn đề liên kết đề thuyết và đƣa ra các cách thức tổ chức dạy học để
giúp giáo viên cũng nhƣ học sinh thực hiện hiệu quả các bài học này.
Xuất phát từ quan điểm khoa học và nhu cầu thực tiễn dạy học nói trên
chúng tôi chọn đề tài cho luận văn của mình là “Vận dụng liên kết đề thuyết
giữa các câu vào việc tổ chức dạy học lựa chọn trật tự sắp xếp các bộ
phận câu, các kiểu câu trong văn bản cho học sinh lớp 11 THPT”.
2. Lịch sử vấn đề
Lịch sử của quá trình dạy viết câu đã trải qua những giai đoạn khác
nhau gắn liền với những thành tựu nghiên cứu của giới ngôn ngữ.
Giai đoạn dạy viết các câu độc lập:
Trƣớc đây, trong những nghiên cứu về ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ đều
cho rằng câu là đơn vị ngôn ngữ hoàn chỉnh, đơn vị lớn nhất, trên câu không
còn đơn vị ngôn ngữ nào lớn hơn nữa. Định nghĩa về câu thể hiện rõ quan
điểm trên của nhà ngôn ngữ học Mĩ L. Bloomfield đã đƣợc chấp nhận rộng rãi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
ở nhiều nƣớc, kể cả ở Việt Nam: “Câu là một kết cấu mà trong phát ngôn
đang xét không phải là bộ phận của một kết cấu lớn hơn nào.” Cho đến tận
những năm 1960, nhận định này của nhà ngôn ngữ học Pháp E.Benveniste
vẫn đƣợc đồng tình tại Đại hội quốc tế các nhà ngôn ngữ học lần IX: “
Nhóm các câu không tạo nên một đơn vị bậc cao hơn so với câu. Cấp độ
ngôn ngữ nằm trên cấp độ vị từ (tức cấp độ câu) là không có.” Thậm chí,
năm 1967, trong cuốn “Dẫn luận ngôn ngữ học” nổi tiếng của mình nhà
ngôn ngữ học Nga A.A. Reformatskij sau khi kể tên các đơn vị ngôn ngữ âm
vị, hình vị, từ, câu vẫn tuyên bố dứt khoát: “Trong ngôn ngữ không còn gì và
không thể có gì nữa!”.
Với quan niệm nhƣ vậy, ngữ pháp học lâu nay chỉ gói gọn trong hai
phần: Lí thuyết về từ và lí thuyết về câu. Quá trình dạy học câu cũng chỉ dừng
lại ở những việc: Cung cấp những kiến thức về câu với tƣ cách câu là đơn vị
ngôn ngữ lớn nhất, đứng độc lập và không bao giờ quan hệ với những câu
khác, dạy viết các câu độc lập, đơn lẻ.
Tiếp nhận những thành tựu của ngôn ngữ học thế giới, ở Việt Nam
trƣớc đây, chƣơng trình sách giáo khoa Ngữ văn trƣớc cải cách chủ yếu chú
trọng dạy học sinh viết các câu rời, không chú ý đến mối quan hệ giữa các
câu. Các sách nghiên cứu, tài liệu tiếng Việt thực hành cũng chỉ dừng lại ở
việc dạy viết và sửa chữa trong nội bộ câu. Khuynh hƣớng dạy học phổ biến
này kéo dài cho đến khi bộ môn Ngôn ngữ học văn bản ra đời.
Giai đoạn dạy viết câu trong mối quan hệ với các câu trong văn bản:
Sự ra đời của ngôn ngữ học văn bản ở giữa thế kỷ 20 đã khẳng định
mối nghi ngờ bấy lâu của nhiều nhà ngôn ngữ rằng: Câu chƣa phải là đơn vị
ngôn ngữ lớn nhất mà văn bản mới là đơn vị ngôn ngữ lớn nhất. Văn bản là
một hệ thống chỉnh thể trọn vẹn tập hợp nhiều câu có quan hệ với nhau về nội
dung và hình thức. Với những công trình đặt nền móng đầu tiên nhƣ: “Chỉnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
thể cú pháp phức hợp” của N.S. Pospelov; “Chỉnh thể cú pháp của văn bản
hoàn chỉnh” của I.A. Figurovski; “Thuyết phân đoạn thực tại câu” của
V.Mathesius; “Sự liên kết giữa các câu độc lập trong khối liên hiệp các câu”
của K. Boost...Ngữ pháp văn bản đã chứng minh văn bản là một đơn vị ngôn
ngữ chỉnh thể, trọn vẹn về nội dung và hình thức. Giữa các câu trong văn bản
có những mối liên kết chặt chẽ. Những nghiên cứu của nhiều nhà ngôn ngữ
học trên thế giới đã dẫn đến những kết luận mang tính bƣớc ngoặt:
“Cái duy nhất đến với người nghiên cứu ngôn ngữ với tư cách khởi
điểm (...) đó là văn bản trong tính hoàn chỉnh tuyết đối và không tách rời của
nó.” (L. Hjelmslev, 1953)
“Đơn vị cơ bản khi chúng ta sử dụng ngôn ngữ, không phải là từ hay
câu, mà là văn bản.” (M.H.K Halliday, 1960)
“Các kí hiệu ngôn ngữ chỉ bộc lộ mình chừng nào chúng là những cái
gắn bó với nhau trong văn bản (...) Mọi người dùng ngôn ngữ (..) chỉ nói
bằng các văn bản, chứ không phải bằng các từ và bằng các câu, ít ra là cũng
bằng các câu làm thành từ các từ nằm trong văn bản.” (H. Harmann, 1965)
“Trong thời đại chúng ta mọi người thừa nhận rằng đơn vị ngôn ngữ cao
nhất, ít lệ thuộc nhất, không phải là câu, mà là văn bản.” (W. Dressler, 1970)
Bắt nhịp với những nghiên cứu mới này, ở Việt Nam, cuốn “Hệ thống
liên kết văn bản tiếng Việt” của Trần Ngọc Thêm là cuốn sách đầu tiên nghiên
cứu về ngôn ngữ học văn bản. Tác giả đã có những kiến giải sâu sắc về hệ
thống liên kết văn bản trong tiếng Việt. Cùng với đó, rất nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề liên kết trong văn bản của nhiều tác giả nhƣ: Đỗ Hữu
Châu, Diệp Quang Ban, Trần Thanh Bình, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn
Quang Ninh; Nhiều giáo trình tiếng việt thực hành của Nguyễn Minh Thuyết -
Nguyễn Văn Hiệp, Bùi Minh Toán – Lê A - Đỗ Việt Hùng, Hoàng Anh -
Phạm Văn Thấu...Tất cả các công trình nghiên cứu đều hƣớng vào việc dạy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
viết câu trong hoạt động giao tiếp, nghĩa là viết câu không chỉ có một câu
đúng mà phải viết nhiều câu cùng đúng, viết câu liên kết với nhau để tạo
thành văn bản thống nhất.
Quan điểm dạy câu lúc này không phải chỉ là dạy cho học sinh biết viết
từng câu đơn lẻ, hay, đúng ngữ pháp, mà mục tiêu quan trọng là dạy học sinh
viết câu và xem xét câu trong mối quan hệ liên kết với các câu khác sao cho
viết câu đảm bảo liên kết và hƣớng vào mục đích giao tiếp. Đáp ứng những
yêu cầu dạy học trên, Sách giáo khoa Ngữ văn THPT đã chính thức đƣa nội
dung này vào chƣơng trình tiếng Việt, đó những bài thực hành về kỹ năng lựa
chọn trật tự trong câu, lựa chọn kiểu câu trong văn bản, bài học về văn bản.
Chƣơng trình làm văn cũng đƣa vào các bài dạy về viết câu để tạo lập đoạn
văn, viết bài văn. Những công trình nghiên cứu về Ngôn ngữ học văn bản kể
trên cũng nhƣ những giáo trình về dạy viết câu tiếng Việt đã có đóng góp rất
lớn cho công tác dạy học tiếng Việt nhƣng thƣờng đƣợc viết với một lƣợng
kiến thức hàn lâm. Cách viết ấy thích hợp hơn cho các đối tƣợng là học viên,
sinh viên đại học, ngƣời nghiên cứu. Các sách thiết kế, sách giáo viên cũng
chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu chung chung và hƣớng dẫn thực hiện sơ bộ trong
nội dung bài học. Có lẽ vẫn cần có nhiều hơn nữa những giáo trình, bài
nghiên cứu dạy viết câu đơn giản, phù hợp với trình độ của học sinh phổ
thông. Vì thế, viết đề tài này, ngƣời nghiên cứu đã tiếp thu tinh thần dạy câu
mới với những nội dung cụ thể. Từ việc tiếp nhận đó, chúng tôi muốn đặt lại
vấn đề một cách toàn diện: Tìm ra đƣợc cơ sở khoa học của việc dạy câu cũng
nhƣ đề xuất những phƣơng pháp dạy học cụ thể cho các bài học về thực hành
lựa chọn trật tự các bộ phận trong câu và sử dụng các kiểu câu trong văn bản.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
- Trên cơ sở xây dựng lý thuyết khoa học của việc lựa chọn trật tự sắp xếp các
bộ phận câu, các kiểu câu trong văn bản, luận văn đề ra các giải pháp góp
phần nâng cao năng lực viết câu cho học sinh lớp 11 THPT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý thuyết và thực tiễn để đề xuất các giải pháp rèn luyện
năng lực viết câu liên kết cho học sinh lớp 11 THPT.
- Đề xuất nội dung, biện pháp rèn luyện năng lực lựa chọn trật tự sắp xếp các
bộ phận câu, các kiểu câu trong văn bản.
- Tổ chức thực nghiệm dạy học để đánh giá hiệu quả, khả năng thực thi của
những đề xuất trong luận văn.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Nghiên cứu quá trình dạy viết câu đảm bảo tính liên kết nói chung và việc tổ
chức dạy học lựa chọn trật tự sắp xếp các bộ phận câu, các kiểu câu trong văn
bản cho học sinh lớp 11.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu cách thức tổ chức thực hành về lựa chọn trật tự sắp xếp các bộ
phận câu, thực hành lựa chọn các kiểu câu trong văn bản.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu sau:
5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết để thu thập tƣ liệu,
nghiên cứu lịch sử vấn đề, nghiên cứu các tài liệu lí luận liên quan đến dạy và
học nói chung, đặc biệt là dạy và học câu để đảm bảo tính liên kết.
5.2. Phƣơng pháp thống kê, phân tích:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
- Nghiên cứu, phát hiện năng lực, thực trạng viết câu thoả mãn tính liên kết
của học sinh.
- Phân tích và vận dụng những vấn đề lý thuyết đã nghiên cứu vào thực tế
giảng dạy các bài thực hành tiếng Việt.
- Thu lƣợm những tài liệu, kết quả thực nghiệm để hỗ trợ đánh giá kết quả
thực nghiệm.
5.3. Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm:
- Chúng tôi tổ chức thực nghiệm dạy học và đối chứng trên nhiều đối tƣợng
và địa bàn khác nhau. Sau đó điều tra kết quả thực nghiệm, đối chiếu kết quả
thực nghiệm giữa các lớp cùng trƣờng, giữa các trƣờng với nhau. Từ đó đánh
giá những thành công cũng nhƣ hạn chế của giáo án thực nghiệm và lấy đó
làm cơ sở để điều chỉnh và hoàn thiện đề tài.
6. Bố cục luận văn
Từ việc xác định các mục đích, đối tƣợng, phƣơng pháp nghiên cứu,
chúng tôi xây dựng cấu trúc của luận văn nhƣ sau: Ngoài phần Mở đầu, Kết
luận và Thƣ mục tham khảo, phần Nội dung luận văn gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: “Liên kết đề thuyết giữa các câu trong văn bản là một trong
những cơ sở của việc lựa chọn trật tự sắp xếp các bộ phận câu, các kiểu câu
trong văn bản”. Chƣơng này nhằm xây dựng cơ sở lý thuyết về liên kết đề
thuyết, khảo sát các kiểu liên kết đề thuyết giữa các câu trong văn bản, các
phƣơng tiện thể hiện liên kết đề thuyết giữa các câu trong văn bản.
Chƣơng 2: “Tổ chức dạy học lựa chọn trật tự sắp xếp các bộ phận câu,
các kiểu câu trong văn bản”.
Trong chƣơng này chúng tôi sẽ tổ chức dạy học lựa chọn trật tự sắp xếp các
bộ phận câu, các kiểu câu trong văn bản cho học sinh lớp 11 bằng việc xây
dựng hệ thống bài tập và hƣớng dẫn học sinh thực hành các bài tập đó.
Chƣơng 3: “Thực nghiệm sƣ phạm”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
Trong chƣơng thực nghiệm sƣ phạm chúng tôi sẽ thiết kế giáo án thực nghiệm
hai bài dạy thực hành về lựa chọn trật tự các bộ phận câu và thực hành về sử
dụng một số kiểu câu trong văn bản trong SGK Ngữ văn11- tập 1 và đƣa vào
thực nghiệm ở các trƣờng lớp cụ thể, sau đó đƣa ra những kết luận.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
LIÊN KẾT ĐỀ THUYẾT GIỮA CÁC CÂU TRONG VĂN BẢN
LÀ MỘT TRONG NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC LỰA CHỌN TRẬT TỰ
SẮP XẾP CÁC BỘ PHẬN CÂU, CÁC KIỂU CÂU TRONG VĂN BẢN
1.1. Liên kết đề thuyết giữa các câu trong văn bản
1.1.1. Liên kết các câu trong văn bản
1.1.1.1. Khái niệm liên kết và liên kết trong văn bản
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Liên kết là “kết lại với nhau từ nhiều
thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ”, là “gắn chặt với nhau”. Từ định nghĩa này
có thể hiểu rộng ra: Tất cả các sự vật hiện tƣợng trong cùng một hệ thống đều
đƣợc gắn kết với nhau, chúng có tính liên kết.
“Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, là đơn vị
ngôn ngữ cao nhất tập hợp của nhiều câu, nhiều đoạn, nhiều chƣơng, nhiều
phần” [37, 25]. Nhƣng văn bản không phải là phép cộng đơn thuần của các
câu mà văn bản là một hệ thống ngôn ngữ mang tính chỉnh thể trọn vẹn cả về
nội dung lẫn hình thức. Giữa các câu trong văn bản có những mối liên hệ chặt
chẽ với nhau, vì thế văn bản có tính liên kết. Liên kết chính là đặc trƣng quan
trọng nhất có tác dụng biến một chuỗi câu trở thành văn bản và cũng là yếu tố
quyết định một sản phẩm ngôn ngữ có đƣợc phẩm chất của một văn bản hay
không. Tất cả các công trình nghiên cứu về văn bản đều bàn đến đặc trƣng
liên kết của văn bản:
“Sự Liên kết là mạng lƣới các mối quan hệ và liên hệ giữa các câu trong
một văn bản.” [35]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
“Tính liên kết trong văn bản là những mối quan hệ qua lại chặt chẽ giữa
các câu, giữa các đoạn, giữa các phần, các bộ phận của văn bản.” [37, 26].
Tính liên kết trong văn bản “đó là những mối quan hệ qua lại chặt chẽ
giữa các câu, các đoạn, các phần của văn bản.” [3]
1.1.1.2. Các mặt liên kết trong văn bản
Quá trình nghiên cứu về các mặt liên kết trong văn bản đã trải qua
những giai đoạn khác nhau với những quan điểm khác nhau. Ở giai đoạn đầu
các nhà nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những biểu hiện hình thức
của sự liên kết. Nhƣng rất dễ dàng tạo ra các chuỗi câu có đủ các dấu hiệu liên
kết hình thức nhƣng không diễn đạt một nội dung nào, nghĩa là giữa các câu
không chỉ có quan hệ về hình thức mà còn có quan hệ với nhau về nội dung.
Vì thế ở giai đoạn sau các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý đến vai trò của các
liên kết ngữ nghĩa và liên kết đƣợc khai thác cả ở phƣơng diện liên kết hình
thức lẫn phƣơng diện ngữ nghĩa. Các quan niệm nghiên cứu hiện nay đều
thống nhất khai thác tính liên kết của văn bản trên hai mặt: Liên kết nội dung
và liên kết hình thức.
Liên kết hình thức: Là tên gọi quy ƣớc để chỉ các phƣơng tiện hình
thức của ngôn ngữ, đƣợc dùng để diễn đạt các quan hệ nghĩa. Các phƣơng
tiện hình thức ngôn ngữ này là một hệ thống các phƣơng thức liên kết
hình thức.
Phƣơng thức liên kết là việc sử dụng các phƣơng tiện hình thức của
ngôn ngữ vào nhiệm vụ liên kết câu với câu. Các phƣơng thức liên kết đã
đƣợc nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm tổng hợp trong cuốn “Hệ thống liên
kết văn bản tiếng Việt” bao gồm năm phƣơng thức liên kết chung đó là: Phép
lặp, phép đối, phép thế đồng nghĩa, phép liên tƣởng và phép tuyến tính.
Liên kết nội dung: Là mặt liên kết thứ hai rất quan trọng trong liên kết
văn bản. Liên kết về nội dung trong văn bản đƣợc làm sáng tỏ trong mối liên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
hệ với liên kết hình thức: “Liên kết nội dung đƣợc thể hiện bằng một hệ thống
các phƣơng thức liên kết hình thức, và liên kết hình thức chủ yếu dùng để
diễn đạt sự liên kết nội dung.” [35]
Liên kết nội dung trong văn bản thể hiện trên hai bình diện: liên kết chủ
đề và liên kết logíc.
Liên kết chủ đề: Mỗi văn bản đều nhất quán nói về một chủ đề nhất
định (chủ đề: Đề tài, vật, việc đƣợc nói đến). Vì thế một văn bản có tính liên
kết về nội dung là các câu, các phần trong văn bản đều phải xoay quanh chủ
đề chung. Để tạo ra sự liên kết về chủ đề trong văn bản cũng có thể sử dụng
các phép liên kết: Lặp từ vựng, thế đồng nghĩa, thế đại từ, tỉnh lƣợc yếu, tỉnh
lƣợc mạnh để tạo ra một chuỗi chủ đề thống nhất trong văn bản.
Liên kết logíc là “sợi dây nối kết hợp lí giữa vật, việc với đặc trƣng của
chúng trong một câu và giữa đặc trƣng này với đặc trƣng kia trong những câu
liên kết với nhau” [7]. Vậy các đơn vị liên kết trong liê