Luận văn Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu vật tư thiết bị máy móc của công ty cổ phần vật tư xuất nhập khẩu MASIMEX giai đoạn 2005-2008

Trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực thì hoạt động thương mại quốc tế trở thành một lĩnh vực hết sức quan trọng để mỗi quốc gia phát huy tiềm năng lợi thế cho mình. Chính sách đối ngoại cởi mở, thân thiện của Nhà Nước đã tạo ra bầu không khí mới trong hoạt động ngoại thương nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng của nước ta. Đứng trước xu thế hội nhập toàn cầu , các doanh nghiệp phải tổ chức tốt hoạt động kinh doanh của mình, nắm bắt các quy luật của nền kinh tế thị trường để từ đó đưa ra những quyết định đảm bảo kinh doanh có lãi đặc biết là doanh nghiệp nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa lớn đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Nó nhằm thoả mãn nhù cầu sản xuất và tiêu dùng mà nền kinh tế của nó không thể đáp ứng đồng thời nó cũng giúp các quốc gia rút ngắn khoảng cách về trình độ sản xuất trong nước, về khoa học kỷ thuật. Đối với nước ta, trình độ phát triển còn thấp và mục tiêu đề ra là thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước không chỉ dựa vào nguồn lực mà còn dựa vào nguồn lực của mình mà còn biết tận dụng và kế thừa những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của các nước phát triển thì hoạt động nhập khẩu càng trở nên quan trọng. Xuất phát từ thực tế trên .Em đã nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu MASIMEX , cùng với sự hướng dẫn tận tình của các phòng xuất nhập khẩu và thầy giáo PGS.TS Trần Ngọc Phác nên em đã chọn đề tài: “Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu vật tư thiết bị máy móc của công ty cổ phần vật tư xuất nhập khẩu MASIMEX giai đoạn 2005-2008" Đề tài này nhằm tập trung phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần MASIMEX để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty cổ phần MASIMEX nói riêng và hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói chung Kết cẩu của luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung được chia làm 3 chương: Chương I: Những vấn đề chung về hoạt động kinh doanh nhập khẩu Chương II: Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Chương III: Phân tích thống kê hoạt động kinh doanh nhập khẩu vật tư thiết bị máy móc của công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu MASIMEX giai đoạn 2005-2008 Do thời gian cũng như kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chỉ bảo của thầy cố giáo, và cán bộ của phòng xuất nhập của công ty để có thể rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho việc nghiên cứu, học tập và làm việc sau này Qua đây em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn PGS.TS Trần Ngọc Phác cùng cán bộ của các phòng xuất nhập khẩu của công ty cổ phần MASIMEX đã tận tình giúp đỡ chỉ bảo, tạo điều kiện thuận lời cho em hoàn thành tốt luận văn này.

doc94 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu vật tư thiết bị máy móc của công ty cổ phần vật tư xuất nhập khẩu MASIMEX giai đoạn 2005-2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Biến động lao động của MASIMEX giai đoạn 2005-2008 40 Bảng 2.2: Biến động vốn kinh doanh của công ty MASIMEX từ năm 2005-2008 42 Bảng 2.3: Cơ cấu vốn theo tính chất vốn của MASIMEX từ 2005-2008 44 Bảng 2.4: Biến động vốn lưu động của MASIMEX giai đoạn 2005-2008 45 Bảng 2.5: Biến động về giá trị kim ngạch nhập khẩu vật tư và thiết bị máy móc của công ty MASIMEX giai đoạn 2005-2008 46 Bảng 2.6: Kết quả hoạt động nhập khẩu của công ty MASIMEX theo từng mặt hàng. 48 Bảng 2.7 :Kết quả hoạt động nhập khẩu của công ty MASIMEX theo châu lục 50 Bảng 2.8: Tổng doanh thu của MASIMEX từ 2005-2008 52 Bảng 2.9: Biến động tổng doanh thu của MASIMEX giai đoạn 2005-2008 53 Bảng 2.10: Biến động Lợi nhuận của MASIMEX giai đoạn 2005-2008 60 Bảng 2.11: Một số chỉ tiêu hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty giai đoạn 2005-2008 68 Bảng 2.12: Bảng so sánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty MASIMEX trong năm 2008 so với năm 2005 69 Biểu đồ 2.1: Doanh thu của công ty cổ phần Vật tư và Xuất nhập khẩu Masimex từ 2005 - 2008 52 Biểu đồ 2.2: Tổng lợi nhuận của công ty Cổ phần Vật tư và xuất nhập khẩu Masimex từ 2005 - 2008 62 LỜI NÓI ĐẦU Trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực thì hoạt động thương mại quốc tế trở thành một lĩnh vực hết sức quan trọng để mỗi quốc gia phát huy tiềm năng lợi thế cho mình. Chính sách đối ngoại cởi mở, thân thiện của Nhà Nước đã tạo ra bầu không khí mới trong hoạt động ngoại thương nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng của nước ta. Đứng trước xu thế hội nhập toàn cầu , các doanh nghiệp phải tổ chức tốt hoạt động kinh doanh của mình, nắm bắt các quy luật của nền kinh tế thị trường để từ đó đưa ra những quyết định đảm bảo kinh doanh có lãi đặc biết là doanh nghiệp nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa lớn đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Nó nhằm thoả mãn nhù cầu sản xuất và tiêu dùng mà nền kinh tế của nó không thể đáp ứng đồng thời nó cũng giúp các quốc gia rút ngắn khoảng cách về trình độ sản xuất trong nước, về khoa học kỷ thuật. Đối với nước ta, trình độ phát triển còn thấp và mục tiêu đề ra là thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước không chỉ dựa vào nguồn lực mà còn dựa vào nguồn lực của mình mà còn biết tận dụng và kế thừa những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của các nước phát triển thì hoạt động nhập khẩu càng trở nên quan trọng. Xuất phát từ thực tế trên .Em đã nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu MASIMEX , cùng với sự hướng dẫn tận tình của các phòng xuất nhập khẩu và thầy giáo PGS.TS Trần Ngọc Phác nên em đã chọn đề tài: “Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu vật tư thiết bị máy móc của công ty cổ phần vật tư xuất nhập khẩu MASIMEX giai đoạn 2005-2008" Đề tài này nhằm tập trung phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần MASIMEX để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty cổ phần MASIMEX nói riêng và hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói chung Kết cẩu của luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung được chia làm 3 chương: Chương I: Những vấn đề chung về hoạt động kinh doanh nhập khẩu Chương II: Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Chương III: Phân tích thống kê hoạt động kinh doanh nhập khẩu vật tư thiết bị máy móc của công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu MASIMEX giai đoạn 2005-2008 Do thời gian cũng như kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chỉ bảo của thầy cố giáo, và cán bộ của phòng xuất nhập của công ty để có thể rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho việc nghiên cứu, học tập và làm việc sau này Qua đây em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn PGS.TS Trần Ngọc Phác cùng cán bộ của các phòng xuất nhập khẩu của công ty cổ phần MASIMEX đã tận tình giúp đỡ chỉ bảo, tạo điều kiện thuận lời cho em hoàn thành tốt luận văn này. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU I: Khái niệm và vai trò của nhập khẩu 1: Khái niệm và đặc điểm của nhập khẩu Nhập khẩu được xem là một khâu cơ bản trong hoạt động ngoại thương, đó là việc sử dụng ngoại tệ để mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước hoặc đem tái sản xuất nhằm thu được lợi nhuận. Bản chất, hoạt động nhập khẩu và hoạt động mua bán hàng hoá trong nước cũng là quá trình trao đổi hàng hoá, quá trình nhằm thực hiện giá trị hàng hoá của người sản xuất ra chúng. Tuy vậy về hình thức, phạm vi có những đặc điểm khác biệt như sau: - Trong hoạt động nhập khẩu thị trường được xem là phức tạp và khó tiếp cận hơn thị trường trong nước do sự cách biệt về địa lý, khó khăn về thu nhập và hệ thống xử lý thông tin. - Đối tác trong hoạt động nhập khẩu chính là những người nước ngoài có sự khác biệt về ngôn ngữ, lối sống, phong tục tập quán, thu nhập… - Toàn bộ các nghiệp vụ liên quan đến nhập khẩu đó là thanh toán, vận chuyển ký hợp đồng đểu tương đối phức tạp, chứa nhiều rủi ro hơn là hoạt động mua bán hàng hoá trong nội địa. - Hình thức mua bán trong hoạt động nhập khẩu chính là mua bán qua các hợp đồng , khối lượng lớn hàng hoá do vậy đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ càng, chặt chẽ, tránh nhầm lẫn và khiếu nại tranh chấp về sau này. Những hàng hoá được coi là nhập khẩu bao gồm các loại sau: Hàng hóa mua của nước ngoài bao gồm cả máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất hàng tiêu dùng . Dựa vào hợp đồng nhập khẩu mà các doanh nghiệp của nước ta đã ký kết với doanh nghiệp và tổ chức kinh tế nước ngoài. Ÿ Hàng nước ngoài viện trợ cho nước ta dựa trên cơ sở các hợp đồng, nghị định thư giữa chính phủ các nước thực hiện được tiến hành thực hiện thông qua các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Ÿ Hàng nước ngoài được đem vào hội chợ triễn lãm ở nước rồi sau đó bán lại cho các doanh nghiệp Việt Nam và được thanh toán bằng ngoại tệ. Như vậy, nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc của nền kinh tế giữa các nước với nhau của mỗi nước với nền kinh tế trong khu vực và nền kinh tế thế giới. Hiện này, sự phụ thuộc ngày càng cao và càng có xu hướng gia tăng. 2: Vai trò của hoạt động nhập khẩu Xuất khẩu và nhập khẩu là những hoạt động song song có tác động và hỗ trợ lẫn nhau để điều hoà sự phát triển của nền kinh tế. Nhập khẩu được coi là một quá trình thực hiện mục tiêu lợi nhuận của đơn vị kinh doanh và nó có ý nghĩa có ý nghĩa đặc biệt đối với quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Nhập khẩu là một hoạt động có tổ chức cả bên trong, bên ngoài nhằm mục tiêu đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đối cơ cấu kinh tế trong nước và ổn định và từng bước nâng cao mức sống của người dân. Cụ thể ,nhập khẩu có những vai trò sau đây: Thứ nhất, nhập khẩu có tác dụng trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh, vì thông qua hoạt động nhập khẩu để cung cấp cho nền kinh tế 50%, đến 60% nguyên vật liệu. Ở Việt nam, hoạt động nhập khẩu chủ yếu chính là hoạt động nhập khẩu vật tư, máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và một số mặt hàng phục vụ cho tiêu dung sinh hoạt mà ta chưa có khả năng sản xuất hoặc nếu có sản xuất thì còn rất hạn chế. Vì vậy nhập khẩu đóng một vai trò rất quan trọng. Thứ hai, nhập khẩu tác động mạnh vào đổi mới thiệt bị và công nghệ sản xuất ở nước ta . Nhập khẩu đã tạo ra sự chuyển giao công nghệ, đã rút ngắn khoảng cách giữa các nước ta với các quốc gia trên thế giới chính là cầu nối thông suốt giữa nền kinh tế nước ta với nền kinh tế của thế giới. Tạo điều kiện cho nước ta tham gia ngày càng sâu rộng vào phân công lao động trên thế giới nhằm phát huy được lợi thế so sánh của nước ta. Để từ đó, trình độ lực lượng sản xuất được nâng cao, năng suất lao động được tăng lên và chất lượng sản phẩm được cải tiến nhờ nhập khẩu các thiết bị máy móc, công nghệ sản xuất tiên tiến và nguyên vật liệu có chất lượng cao. Thứ ba, Đối với doanh nghiệp nhập khẩu giúp cho doanh nghiệp có được công nghệ sản xuất hiện đại để tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm. Thông qua hoạt động nhập khẩu doanh nghiệp có thể mở rộng buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài. Từ đó hình thành nên liên kết kinh tế giữa các chủ thế trong nước và nước ngoài. Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động xuất nhập khẩu làm tăng doanh thu, lợi nhuận trên cơ sở nâng cao thu nhập mức sống cho cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp và tạo nguồn việc làm cho nhân công trong nước. Thứ tư, nhập khẩu còn có tác dụng kìm hãm giá cả , ổn định thị trường nhằm cân đối cung cầu hạn chế khan hiếm hàng hoá và tình trạng leo thang giá cả. Nhập khẩu góp phần đáng kể xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ nền kinh tế đóng, sàng lọc những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và thúc đẩy các doanh nghiệp có hiệu quả vươn lên. Vì vậy, hoạt động nhập khẩu phải đảm bảo các quy tắc sau đây: + Cần sử dụng vốn nhập khẩu tiết kiệm, nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế cao + Chỉ chú trọng nhập khẩu các thiết bị kỷ thuật hiện đại, tránh nhập khẩu những công nghệ đã lạc hậu, mà các nước đang tìm cách sa thải và ưu tiên nhập khẩu kỷ thuật công nghệ để chế biến hàng hoá xuất khẩu, kết hợp với nhập những nguyên vật liệu mà trong nước chưa sản xuất được. +Nhập khẩu phải đảm bảo để bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước, phát triển gia tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu của nước ta.Từ đó tạo ra nguồn việc làm cho nguồn nhân công trong nước trong nước. 3: Các hình thức kinh doanh nhập khẩu. Hiện nay, ở nước ta có bốn hình thức nhập khẩu sau: Nhập khẩu uỷ thác: Chính là hoạt động được hình thành giữa một doanh nghiệp ở trong nước có vốn và ngoại tệ riêng , có nhù cầu nhập khẩu một số các loại hàng hoá song lại không thể có đủ kinh nghiệm nhưng nếu tự làm sẽ không đạt được hiệu quả do vậy đã uỷ thác cho một doanh nghiệp khác có chức năng, kinh nghiệm thực hiện đúng các giao dịch trực tiếp và thực hiện đàm phán với đối tác nước ngoài, nhằm tiến hành làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá, yêu cầu của bên uỷ thác. Được hưởng phần thù lao đó chính là chi phí uỷ thác. Với hình thức nhập khẩu uỷ thác này, đối với doanh nghiệp nhận uỷ thác không cần phải bỏ vốn ra, không phải xin hạn ngạch , không cần quan tâm tới thị trường tiêu thụ, mà chỉ đại diện cho bên uỷ thác thực hiện giao dịch, tiến hành đàm phán nhằm ký kết hợp đồng. Để từ đó làm thủ tục nhập hàng cũng như thay mặt bên uỷ thác, đòi bồi thường với đối tác nước ngoài, khi tổn thất phát sinh. Do vậy đối với hình thức kinh doanh nhập khẩu này doanh nghiệp chỉ phải tốn mất một khoản chi phí nhỏ song an toàn cao nhưng lợi nhuận thu được từ hoạt động này lại thấp. Để tiến hành hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp nhận uỷ thác sẽ chỉ được tính chỉ tiêu kim ngạch nhập khẩu, không được tính vào doanh số và không phải chịu thuế gia trị gia tăng. Nhập khẩu liên doanh: Nhâp khẩu liên doanh đây là hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá, được hình thành trên cơ sở liên kết kinh tế. Một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp nhưng phải có ít nhất một bên là doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp, nhằm phối hợp các kỹ năng để thực hiện giao dịch, đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này để cho có lợi nhất cho tất cả các bên tham gia, để từ đó, chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ theo trách nhiệm của mỗi bên tham gia. Nhập khẩu tự doanh: Nhập khẩu tự doanh đây là hoạt động nhập khẩu độc lập, của một doanh nghiêp kinh doanh nhập khẩu dựa trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong nước cũng như quốc tế.Tính toán đầy đủ các chi phí, nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh nhập khẩu, tuân thủ các chính sách, luật pháp quốc gia và quốc tế. Với hình thức nhập khẩu uỷ thác thì hình thức nhập khẩu này doanh nghiệp phải tự nghiên cứu thị trường và tự bỏ vốn kinh doanh. Doanh nghiệp chịu mỗi khoản chi phí và độ rủi ro của hình thức cao hơn. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải cân nhắc, suy xét kỹ khi tiến hành hoạt động kinh doanh này. Tuy vậy song hình thức kinh doanh này lại đem lại lợi nhuận lại rất cao. Đấu thầu: Đấu thầu được xem là một phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó người mua công bố trước toàn bộ các điều kiện thanh toán tiếp đó người mua sẽ chọn mua của những người báo giá rẻ nhất, cùng các điều kiện phù hợp hơn những điều kiện mà người mua đã nêu. Đấu thấu là phương thức được các nhà nhập khẩu và các tổ chức tín dụng quốc tế sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Điểm nổi bật của hình thức này là chỉ có một người mua và nhiều người bán do vậy đã tạo ra sự cạnh tranh giữa những người bán với nhau .Vì vậy, mà người mua có thể mua được với giá rẻ, chất lượng vẫn được đảm bảo. Nhưng hình thức này chỉ áp dụng khi chủ đầu tư có số vốn lớn vì chi phí cho hoạt động này là tương đối cao. II: Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu vật tư và thiết bị. 1: Yếu tố bên trong doanh nghiệp: Đây là nhân tố có tác động lớn đến quy trình tổ chức để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu. Yếu tố bên trong doanh nghiệp bao gồm: 1.1. Yếu tố con người: Con người là yếu tố trung tâm, chủ thể của mọi hoạt động, chính là nhân tố trực tiếp, ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong việc thực hiện các hợp đồng nhập khẩu. Trình độ của cán bộ quản lý và nhân viên nghiệp vụ có ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức hợp đồng nhập khẩu. Trình độ của cán bộ nghiệp vụ thể hiện ở việc, nắm chắc chuyên môn trong tất cả các khâu: xin giấy phép nhập khẩu, mở L/C, thanh toán, làm thủ tục thanh toán… Vì vậy, Cán bộ lãnh đạo cần có tình thần trách nhiệm cao, biết tổ chức sắp xếp khoa học và kỷ thuật. Từ đó, thì sẻ phát huy hết năng lực của từng nhân viên nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động. sản xuất kinh doanh của công ty 1.2. Cơ sở vật chất kỷ thuật: Bao gồm toàn nhà xưởng, kho tàng, máy móc, hệ thống các phương tiện vận tải, trang thiết bị và hệ thống thông tin liên lạc để phục vụ cho điều kiện làm việc của các cán bộ công nhân viên của công ty. Việc ứng dụng công nghệ và trang thiết bị hiện đại vào hoạt động kinh doanh đó là việc hết sức cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình thực hiện các hợp đồng nhập khẩu. Cơ sở vật chất mà vững mạnh sẽ tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thuận lợi và tạo sự tin cậy từ phía đối tác kinh doanh. 1.3. Cơ cấu tổ chức: Việc sắp xếp, bố trí và mối quan hệ giữa các phòng ban chức năng trong doanh nghiệp kết hợp với sự phân công lao động giữa các phòng ban. Với một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ khuyến khích nhân viên bộc lộ, phát huy mọi khả năng của mình và đem lại hiểu quả trong công việc cao. Từ đó tạo tinh thần đoàn kết trong doanh nghiêp. 1.4. Nguồn vốn của doanh nghiêp: Vốn đóng vai trò quyết định quy mô hiệu quả kinh doanh và chính là vũ khí cạnh tranh quan trọng đối với các doanh nghiệp. Dù có thể huy động vốn từ nguồn nào đi chăng nữa thì việc có được nguồn vốn ổn định tạo điệu kiện giúp cho quá trình kinh doanh diễn ra liên tục và doanh nghiệp từ đó, có thể nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh mà các doanh nghiệp có thể bỏ lỡ nếu thiếu vốn.Vì vậy, yêu cầu được đặt ra đối với các doanh nghiệp là phải làm sao để có thể huy động vốn một cách có hiệu quả, từ đó để tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình. Mặt khác, với nguồn vốn lớn nó sẽ phản ảnh tiềm lực tài chính của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho hoạt động thanh toán diễn ra nhanh chóng từ đó, tạo được sự tin cậy của đối tác khi ký hợp đồng. Ngoài ra, các yếu tố vô hình khác cũng có tác động không nhỏ đến cả quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu như: Uy tín của doanh nghiệp, mối quan hệ của doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước, ngân hàng cùng với công ty bảo hiểm, vận tải …. 2: Yếu tố bên ngoài doanh nghiêp: 2.1. Khả năng cung ứng của nhà xuất khẩu: Khả năng tài chính của nhà cung ứng cần phải cân nhăc, xem xét vì nó ảnh hưởng tới khả năng cung cấp hàng của họ, khả năng tài chính lớn sẽ có khả năng đầu tư và sản xuất. Từ đó , sẽ đảm bảo nguồn hang được cung cấp liên tục. Hệ thống thông tin liên lạc tạo điều kiện cho hai bên có được những thông tin về nhau và nắm bắt thông tin trong quá trình thực hiện hợp đồng. Để từ đó , có thể đề ra các biện pháp thích hợp, kịp thời. Cùng với một hệ thống thông tin liên lạc hiện đại nhanh chóng và chính xác sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh, giảm chi phí và rủi ro. Hệ thống tài chính đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp, nhằm đảm bảo hoạt động thanh toán diễn ra thuận lợi. Sự phát hiện của hệ thống ngân hàng tài chính sẽ là động lực thúc đẩy hoạt động nhập khẩu cụ thể : cung cấp vốn cho doanh nghiệp, thay mặt doanh nghiệp cam kết thanh toán được diễn ra nhanh hơn, từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận hàng của doanh nghiệp… 2.2. Tình hình chính trị luật pháp trong nước và quốc tế: Môi trường chính trị đóng vai trò rất quan trọng trong thương mại quốc tế, nó thể hiện sự ổn định về mặt chính trị, thái độ ứng xử của chính phủ các nước và với các công ty có hoạt động kinh doanh tại nước đó. Với một môi trường chính trị ổn định sẻ tạo sự tin cậy cho các nhà đầu tư, cũng như các đối tác, để từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các hợp đồng nhập khẩu, Các biến động chính trị trên thế giới sẽ tác động tới hoạt động nhập khẩu của công ty. Môi trường luật pháp cũng sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu của công ty bằng các công cụ quản lý như thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, thủ tục hải quan, thủ tục xin giấy phép nhập khẩu… Hoạt động kinh doanh nhập khẩu không chỉ chịu sự điều chỉnh của luật pháp Việt Nam mà còn chịu sự điều chỉnh của hệ thống luật pháp quốc tế ví dụ như, tập quan quốc tế, điều ước quốc tế, các hiệp định song phương và đa phương … Các quốc gia có hệ thống pháp luật rất khác nhau, do đó nếu các nhà kinh doanh quốc tế không xem xét đến luật lệ nước mình và bên đối tác khi sẽ dẫn đến khi kí kết đồng nhập khẩu lại rất dễ dẫn đến, hậu quả vi phạm pháp luật khi thực hiện hợp đồng kinh doanh đó. Ngoài ra,doanh nghiệp còn chịu sự tác động rất lớn từ các cơ quan quản lý nhà nước như: Cơ quan hải quan, cơ quan thuế… 2.3. Sự biến động tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái chính là quan hệ về sức mua giữa đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ khác. Đặc biệt là các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi tự do. Vì vậy, mà tỷ giá hối đoái có tác động lớn vào hoạt động nhập khẩu bởi hoạt động nhập khẩu phải thanh toán bằng đồng ngoại tệ. Nếu tỷ giá hối đoái tăng sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và nếu tỷ giá hối đoái giảm sẽ khuyến khich nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu CHƯƠNG II: LỰA CHỌN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP I: Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu 1: Những vấn đề chung khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu Xây dựng một hệ thống chỉ tiêu phản ảnh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp. Nội dung thông tin được phản ảnh qua hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo các yêu cầu sau đây: - Phải đảm bảo tính quy luật, xu thế phát triển và trình độ phổ biến của hiện tượng kinh tế, diễn ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong điều kiện thời gian và không gian cụ thể. - Phải đảm bảo nhu cầu thông tin trong quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp - Hệ thống chỉ tiêu phải mang tính chất chung, trong đó các chỉ tiêu mang tính chất bộ phận và chỉ tiêu nhân tố phải phản ảnh đầy đủ chính xác và sâu sắc tổng thể. - Số liệu thu thập được thông qua hệ thống chỉ tiêu cho phép vận dụng toàn bộ các phương pháp thống kê hiện đại, phương pháp toán học để nghiên cứu và phân tích đầy đủ, sâu sắc tình hình cũng như quá trình hoạt động kinh doanh và sản xuất của doanh nghiệp. Như vậy để đáp ứng được các yêu cầu trên, khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo bốn nguyên tắc sau: Một là, đảm bảo tính hướng đích: Hệ thống chỉ tiêu xây dựng phải phù hợp với nhiệm vụ nghiên cứu, phải đảm bảo tính thống nhất về mặt nội dung, phạm vi và phương pháp tính c
Tài liệu liên quan