Hiện nay, trên thị trường có nhiều loại thuốc giảm đau, hạ sốt, chống viêm... với những thành phần rất khác nhau. Để định lượng các chất trong các thuốc này, theo tiêu chuẩn của các nhà sản xuất thì phải chiết tách riêng từng chất rồi định lượng bằng các phương pháp khác nhau, kĩ thuật tiến hành rất phức tạp, tốn nhiều thời gian, dung môi, hóa chất. Bên cạnh đó với sự thiếu thốn về cơ sở vật chất ở nhiều địa phương, việc định lượng đồng thời các chất mà không phải tách riêng các chất ra khỏi hỗn hợp là một vấn đề đang rất được quan tâm hiện nay.Trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đã áp dụng các phương pháp sai phân, phương pháp phổ đạo hàm, phương pháp bình phương tối thiểu, phương pháp lọc Kalman, các phương pháp phân tích hồi quy đa biến tuyến tính, phương pháp hồi quy đa biến phi tuyến tính…để xác định đồng thời các chất trong cùng hỗn hợp. Một hướng nghiên cứu mới trong phân tích là xác định đồng thời các chất trong cùng một hỗn hợp mà không cần phải tách loại trước khi tiến hành phân tích. Hướng nghiên cứu này bao gồm một số phương pháp phân tích kết hợp với kỹ thuật tính toán, thống kê và đồ thị [4-8].Sử dụng phương pháp trắc quang trong việc xác định thành phần các chất rất hiệu quả vì trong phương pháp trắc quang, người ta sử dụng nguyên lý của định luật Bughe-Lămbe-Bia, ở đó có sự tỉ lệ thuận của độ hấp thụ quang của chất vào nồng độ chất có trong dung dịch. Phương pháp trắc quang có nhiều ưu điểm về độ nhạy, độ lặp, độ chính xác, độ tin cậy của phép phân tích; phân tích nhanh, tiện lợi.
67 trang |
Chia sẻ: Việt Cường | Ngày: 15/04/2025 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xác định đồng thời paracetamol, clopheniramin maleat và dextromethorphan hidrobomit trong thuốc Coldko theo phương pháp trắc quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
LÊ ĐÀO THỤC ANH
XÁC ĐỊNH ĐỒNG THỜI PARACETAMOL,
CLOPHENIRAMIN MALEAT VÀ DEXTROMETHORPHAN
HYDROBROMIT TRONG THUỐC VIÊN NÉN COLDKO
THEO PHƢƠNG PHÁP TRẮC QUANG
CHUYÊN NGÀNH: HÓA PHÂN TÍCH
Mã số: 60.44.29
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Xuân Trường
Thái Nguyên, năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
Hiện nay, trên thị trường có nhiều loại thuốc giảm đau, hạ sốt, chống
viêm... với những thành phần rất khác nhau. Để định lượng các chất trong các
thuốc này, theo tiêu chuẩn của các nhà sản xuất thì phải chiết tách riêng từng
chất rồi định lượng bằng các phương pháp khác nhau, kĩ thuật tiến hành rất phức
tạp, tốn nhiều thời gian, dung môi, hóa chất. Bên cạnh đó với sự thiếu thốn về cơ
sở vật chất ở nhiều địa phương, việc định lượng đồng thời các chất mà không
phải tách riêng các chất ra khỏi hỗn hợp là một vấn đề đang rất được quan tâm
hiện nay.
Trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đã
áp dụng các phương pháp sai phân, phương pháp phổ đạo hàm, phương pháp
bình phương tối thiểu, phương pháp lọc Kalman, các phương pháp phân tích hồi
quy đa biến tuyến tính, phương pháp hồi quy đa biến phi tuyến tính để xác
định đồng thời các chất trong cùng hỗn hợp. Một hướng nghiên cứu mới trong
phân tích là xác định đồng thời các chất trong cùng một hỗn hợp mà không
cần phải tách loại trước khi tiến hành phân tích. Hướng nghiên cứu này bao
gồm một số phương pháp phân tích kết hợp với kỹ thuật tính toán, thống kê và
đồ thị [4-8].
Sử dụng phương pháp trắc quang trong việc xác định thành phần các chất
rất hiệu quả vì trong phương pháp trắc quang, người ta sử dụng nguyên lý của
định luật Bughe-Lămbe-Bia, ở đó có sự tỉ lệ thuận của độ hấp thụ quang của
chất vào nồng độ chất có trong dung dịch. Phương pháp trắc quang có nhiều ưu
điểm về độ nhạy, độ lặp, độ chính xác, độ tin cậy của phép phân tích; phân tích
nhanh, tiện lợi.
Với những lí do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Xác định
đồ ng thờ i paracetamol , clopheniramin maleat và dextromethorphan hidrobomit
trong thuốc Coldko theo phương pháp trắc quang”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2 Chƣơng I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về paracetamol, clopheniramin maleat, dextromethrophan
hidrobromit
1.1.1. Paracetamol
1.1.1.1. Giới thiệu chung
Paracetamol (Acetaminophel hay N-acetyl-p-aminophenol) là chất chuyển
hóa có hoạt tính của phenacetin, là thuốc giảm đau, hạ sốt hữu hiệu có thể thay
thế aspirin. Paracetamol, với liều điều trị, ít tác động đến hệ tim mạch và hô hấp,
không làm thay đổi cân bằng axit-bazơ, không gây kích ứng, xước hoặc chảy
máu dạ dày như khi dùng salicylat. Paracetamol được cung cấp không cần kê
đơn trên hầu hết trên tất cả các nước.
Tên gọi paracetamol và acetaminophen được lấy từ tên hóa học của hợp
chất para-acetylaminophenol và acetylaminophenol.
Paracetamol có công thức phân tử là: C8H9NO2
Công thức cấu tạo
Tên IUPAC: N-(4-hydroxyphenyl) axetamit hay N-axetyl-P-aminophenol.
Khối lượng mol phân tử: 151,17 (g/mol).
Khối lượng riêng: 1,263 (g/cm3).
Nhiệt độ nóng chảy: 1690C.
Độ tan trong nước: 0,1-0,5g/100 ml tại 220C
Hiệu lực sinh học: gần 100%
Chuyển hóa: 90-95%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3 1.1.1.2. Tổng hợp.
Paracetamol gồm có một vòng nhân bezen, được thay thế bởi một nhóm
hydroxyl và nguyên tử nitơ của một nhóm amit theo kiểu para(1,4). Nhóm amit
là axetamite (ethanamite). Đó là một hệ thống liên kết đôi rộng rãi, như cặp đôi
e đơn độc trong nguyên tử oxi của nhóm hydroxyl, cặp đôi đơn độc của nguyên
tử nitơ, quỹ đạo p trong nguyên tử cacbon của nhóm cacbonxyl và cặp đôi e
đơn độc trong cacbonyl oxigen, tất cả đều được nối đôi. Sự có mặt của hai nhóm
hoạt tính cũng làm cho vòng benzen phản ứng với các chất thay thế thơm có ái
lực điện. Khi các nhóm thay thế là đoạn mạch thẳng ortho và para đối với mỗi
cái khác, tất cả vị trí trong vòng đều ít được hoạt hóa như nhau. Sự liên kết cũng
làm giảm đáng kể tính bazơ của oxi và nitơ, khi tạo ra các hydroxyl có tính axit.
Quá trình điều chế:
Từ nguyên liệu ban đầu là phenol, paracetamol có thể được tạo ra theo sơ
đồ hình 1.1.
O
NH2 NH C CH3
O O
O
+
CH3 C O C CH3 +
CH3 C OH
OH OH
p aminophenol
anhidrit axetic paracetamol axit axetic
Hình 1.1 : Quá trình tổng hợp paracetamol
-Phenol được nitrat hóa bởi axit sunfuric và natri nitrat (phenol là
chất có tính hoạt tích cao, sự nitrat hóa của nó chỉ đòi hỏi điều kiện thông
thường trong khi hỗn hợp hơi axit sunfuric và axit nitric cần có nitrat benzen)
- Chất đồng phân para được tách từ chất đồng phân ortho bằng phản
ứng thủy phân (sẽ có một ít meta, như OH là mạch thẳng o-p)
- Chất 4-nitrophenol được biến đổi thành 4-aminophenol sử dụng
một chất khử như natri borohydrit trong dung môi bazơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4 - 4-aminophenol phản ứng với anhydrit axetic để cho paracetamol.
1.1.1.3. Dược lý
Dược động học
Paracetamol hấp thụ nhanh qua ống tiêu hóa, sinh khả dụng là 80-90%, hầu
như không gắn và protein huyết tương. Chuyển hóa lớn ở gan và một phần ở
thận, cho các dẫn xuất glucuro và sulfo-hợp, thải trừ qua thận.
Đặc điểm tác dụng
Cũng như thuốc chống viêm non-steroid khác, paracetamol có tác dụng hạ
sốt và giảm đau, tuy nhiên không có tác dụng chống viêm và thải trừ axit uric,
không kích ứng tiêu hóa, không ảnh hưởng đến tiểu cầu và đông máu.
Cơ chế tác dụng.
Cơ chế tác dụng của paracetamol đang còn được tranh cãi, do thực tế là nó
cũng có tác dụng ức chế men cyclooxygenase (COX) làm giảm tổng hợp
prostagalandin giống như asprin, tuy nhiên paracetamol lại không có tác dụng
chống viêm. Các nghiên cứu tập trung khám phá cách thức ức chế COX của
paracetamol đã chỉ ra hai con đường.
Các men COX chịu trách nhiệm chuyển hóa arachidonic thành
prostaglandinH2, là chất không bền vững và có thể vị chuyển hóa thành nhiều
loại chất trung gian khác. Các thuốc chống viêm kinh điển như NSAIDS tác
động ở khâu này. Hoạt tính của COX dựa vào sự tồn tại của nó dưới dạng oxi-
hóa đặc trưng, tyrosine 385 sẽ bị oxi hóa thành một gốc.
Người ta đã chỉ ra rằng, paracetamol làm giảm oxi hóa của men này từ đó
ngăn chặn nó chuyển hóa các chất trung gian viêm.
Nghiên cứu sâu hơn cho thấy, paracetamol còn điều chỉnh hệ cannabinoid
nội sinh. Paracetamol bị chuyển hóa thành AM404, một chất có các hoạt tính
riêng biệt, quan trọng nhất là nó ức chế sự hấp thu của cannabinoid nội sinh bởi
các neuron. Sự hấp thu này gây hoạt hóa các thụ thể tổn thương của cơ thể. Hơn
nữa, AM404 còn ức chế kênh natri giống như các thuốc tê lidocaine và procaine.
Một giả thiết rất đáng chú ý nhưng hiện nay đã bị loại bỏ cho rằng
paracetamol ức chế men COX-3. Men này khi thí nghiệm trên chó đã cho hiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5 lực giống như COX khác, đó là làm tăng tổng hợp các chất trung gian viêm và bị
ức chế bởi paracetamol. Tuy nhiên trên người và chuột thì men COX-3 lại
không có hoạt tính viêm và không bị tác động bởi paracetamol.
Chuyển hóa.
Paracetamol trước tiên được chuyển hóa tại gan, nơi các sản phẩm chuyển
hóa chính của nó gồm các tổ hợp sulfate và glucuronide không hoạt động rồi
được bài tiết bởi thận. Chỉ một lượng nhỏ nhưng rất quan trọng được chuyển hóa
qua con đường hệ enzyme cytonchrome P450 ở gan (các CYP2E1 và
isoenzymes CYP1A2) và có liên quan đến các tác dụng độc tính của
paracetamol do các sản phẩm alkyl hóa rất nhỏ
(N-acetyl-p-benzo-quinone imiene, viết tắt là NAPQ). Có nhiều hiện tượng
đa dạng trong zen P450, và đa hình thái gien trong CYP2D6 đã được nghiên cứu
rộng rãi. Nhóm này có thể được chia thành chuyển hóa rộng rãi, cực nhanh và
chuyển hóa kém dựa vào sự biểu lộ của CYP2D6, CYP2D6 cũng có thể góp
phần trong sự hình thành NSPQI, dù tác động kém hơn các P450 isozymens
khác, và hoạt tính của nó có thể tham gia độc tính của paracetamol trong dạng
chuyển hóa rộng rãi và cực nhanh và khi paracetamol được dùng liều rất lớn.
Hình 1.2: Các phản ứng trong chuyển hóa Paracetamol.
Sự chuyển hóa của paracetamol là một ví dụ điển hình của sự ngộ độc, bởi
vì chất chuyển hóa NAPQI chịu trách nhiệm trước tiên về độc tính hơn là bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6 thân paracetamol. Ở liều thông thường chất chuyển hóa độc tính NAPQI nhanh
chóng bị khử độc bằng cách liên kết bền vững với các nhóm sulfhydryl của
glutathione hay sự kiểm soát của một hợp chất sulfhydryl như N-acetylcysteine,
để tạo ra các tổ hợp không độc và thải trừ qua thận. Hơn nữa, methionine đã
được nhắc đến trong một số trường hợp , mặc dù các nghiên cứu gần đây đã chỉ
ra rằng N-acetylcysteine là thuốc giải độc quá liều paracetamol hiệu quả hơn.
Cấu trúc của N-Acetyl-p-benzochinonimin (NAPQI)
Tương tác
- Uống paracetamol liều cao dài ngày có thể làm tăng nhẹ tác dụng chống
đông của coumarin và dẫn chất indandion.
- Cần phải chú ý đến khả năng gây hạ sốt nghiêm trọng người bệnh dùng
đồng thời phenothiazin và liệu pháp hạ nhiệt.
- Các thuốc chống giật (như phenytoin, barbiturat,carbamazepin..) gây cảm
ứng enzim ở microsom thể gan, có thể làm tăng tính độc hại gan của
paracetamol do tăng chuyển hóa thuốc thành những chất độc hại với gan. Ngoài
ra, dùng đồng thời isoniazid với paracetamol cũng có thể dẫn đến tăng nguy cơ
gây độc tính với gan, nhưng chưa xác định được cơ chế chính xác của tương tác
này. Nguy cơ paracetamol gây độc tính gan gia tăng đáng kể ở người bệnh uống
liều paracetamol lớn hơn liều khuyên dùng trong khi đang dùng thuốc chống co
giật hoặc isoniazid. Thường không cần giảm liều người bệnh dùng đồng thời
liều điều trị paracetamol và thuốc chống co giật, tuy vậy người bệnh phải hạn
chế tự dùng paracetamol khi đang dùng thuốc chống co giật hoặc isoniazid.
Tác dụng phụ
- Ở liều thông thường, paracetamol không gây kích ứng niêm
mạcdạ dày, không ảnh hưởng đông máu như các NSAIDS, không ảnh hưởng
chức năng thận. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho biết dùng paracetamol liều
cao (trên 2000 mg/ngày) có thể làm tăng nguy cơ biến chứng dạ dày.
- Đôi khi xảy ra ban da và những phản ứng dị ứng khác. Thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7 là ban đỏ hoặc ban mề đay, nặng hơn có thể kèm theo sốt do thuốc và thương
tổn niêm mạc. Người bệnh mẫn cảm với salicylat hiếm khi mẫn cảm với
paracetamol và những thuốc có liên quan.
- Ở một số ít trường hợp riêng lẻ, paracetamol đã gây giảm bạch
cầu trung tính, giảm tiểu cầu và giảm toàn thể huyết cầu.
- Sử dụng paracetamol trong năm đầu tiên của cuộc sống và sau đó
trong thời kỳ thơ ấu có thể tăng nguy cơ bị hen, viêm mũi kết mạc mắt và
eczema và lúc 6 đến 7 tuổi, theo các kết quả của giai đoạn 3 của chương trình
nghiên cứu quốc tế về Hen và các bệnh dị ứng ở trẻ em.
1.1.1.4.Độc tính.
Với liều điều trị hầu như không có tác dụng phụ, không gây tổn thương
đường tiêu hóa, không gây mất thăng bằng kiềm toan, không gây rối loạn đông
máu. Tuy nhiên, khi dùng liều cao (>4g/ngày) sau thời gian tiềm tàng 24 giờ,
xuất hiện hoại tử tế bào gan có thể tiến triển đến chết sau 5-6 ngày.
Biểu hiện:
- Buồn nôn, nôn và đau bụng thường xảy ra trong vòng 2-3 giờ
sau khi uống liều độc của thuốc.
- Met-hemoglobin máu, dẫn đến chứng xanh tím da, niêm mạc là
một dấu hiệu đặc trưng của nhiễm độc cấp tính dẫn chất p-aminophenol, một
lượng nhỏ sulfthemoglobin cũng có thể được sản sinh. Trẻ em có khuynh hướng
tạo met-hemoglobin dễ hơn người lớn sau khi uống paracetamol.
- Khi bị ngộ độc nặng, ban đầu có thể vật vã, kích thích mê sảng.
Sau đó có thể ức chế hệ thần kinh trung ương, sững sờ, hạ thân nhiệt, mệt lả, thở
nhanh, nôn, mạch nhanh và yếu, huyết áp tụt và suy tuần hoàn.
- Truy mạch do giảm oxy huyết tương đối và do tác dụng ức chế
trung tâm, tác dụng này chỉ xảy ra với liều rất lớn.
- Sốc có thể xảy ra nếu co giãn mạch nhiều. Cơn co giật ngẹt thở
gây tử vong có thể xảy ra.
- Thường hôn mê xảy ra trước khi tử vong hoặc sau vài ngày hôn
mê.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8 Nguyên nhân gây ra ngộ độc:
Do paracetamol bị oxi-hóa ở gan cho N-acetyl parabenxoquinonimin. Bình
thường, chuyển hóa này bị khử độc ngay bằng liên hợp các glutathion của gan.
Nhưng khi dùng liều cao, N-acetyl parabenzo quinonimin quá thừa (glotathion
của gan sẽ không còn đủ để trung hòa nữa) sẽ gắn vào protein của tế bào gan và
gây hoại tử tế bào.
Cách điều trị:
- Cần rửa dạ dày trong mọi trường hợp, tốt nhất trong vòng 4 giờ sau
khi uống.
- Liệu pháp giải độc chính là dùng những hợp chất sulfhydryl, có
lẽ tác động một phần do bổ sung dự trữ glutathion ở gan. N-acetylcystein (NAC)
là tiền chất của glutathion có tác dụng khi uống hoặc tiêm tĩnh mạch. Phải cho
uống thuốc giải ngay lập tức nếu chưa đến 36 giờ kể từ khi uống, nếu sau 36 giờ
gan bị tổn thương thì kết quả điều trị sẽ kém.
-Ngoài ra có thể dùng than hoạt tính, thuốc tẩy muối, hoặc nước
chè đặc để làm giảm hấp thụ paracetamol.
1.1.1.5.Dạng thuốc
Paracetamol có các dạng khác nhau như: dạng uống là viên nang, dạng gói
để pha dung dịch, dạng dung dịch để uống hay truyền.
1.1.1.6.. Tính chất của paracetamol.
Paracetamol được hấp thu nhanh chóng và hầu như hoàn toàn qua đường
tiêu hóa. Thức ăn có thể làm viên nén giải phóng kéo dài paracetamol chậm
được hấp thu một phần và thức ăn giàu cacbon hydrat làm giảm tỷ lệ hấp thu của
paracetamol. Nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt trong vòng 30 đến 60 phút sau
khi uống với liều điều trị.
Paracetamol phân bố nhanh và đồng đều trong phần lớn các mô của cơ thể.
Khoảng 25% paracetamol trong máu kết hợp với protein huyết tương.
Thời gian bán hủy trong huyết tương của paracetamol là 1,25 - 3 giờ, có thể
kéo dài với liều gây độc hoặc ở người bệnh có thương tổn gan.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9 Sau liều điều trị, có thể tìm thấy 90 đến 100% thuốc trong nước tiểu trong
ngày thứ nhất, chủ yếu sau khi liên hợp trong gan với axit glucuronic (khoảng
60%), axit sunfuric (khoảng 35%) hoặc cystein (khoảng 3%); cũng phát hiện
thấy một lượng nhỏ những chất chuyển hóa hydroxyl - hoá và khử axetyl. Trẻ
nhỏ ít khả năng glucuro liên hợp với thuốc hơn so với người lớn.
Paracetamol bị N-hydroxyl hóa bởi cytocrom P450 để tạo nên N-acetyl-
benzoquinonimin, một chất trung gian có tính phản ứng cao. Chất chuyển hóa
này bình thường phản ứng với các nhóm sunfuhydryl trong glutathion và như
vậy bị khử hoạt tính. Tuy nhiên, nếu uống liều cao paracetamol, chất chuyển hóa
này được tạo thành với lượng đủ để làm cạn kiệt glutathion của gan; trong tình
trạng đó, phản ứng của nó với nhóm sunfhydryl của protein gan tăng lên, có thể
dẫn đến hoại tử gan.
- Chỉ định: Paracetamol được dùng rộng rãi trong điều trị các chứng đau và
sốt từ nhẹ đến vừa.
Paracetamol được dùng giảm đau tạm thời trong điều trị chứng đau nhẹ và
vừa. Thuốc có hiệu quả nhất là làm giảm đau cường độ thấp có nguồn gốc
không phải nội tạng. Paracetamol không có tác dụng trị thấp khớp. Paracetamol
là thuốc thay thế salicylat (được ưa thích ở người bệnh chống chỉ định hoặc
không dung nạp salicylat) để giảm đau nhẹ hoặc hạ sốt.
Paracetamol thường được dùng để giảm thân nhiệt ở người bị bệnh sốt, khi
sốt có thể có hại hoặc khi hạ sốt người bệnh sẽ dễ chịu hơn. Tuy vậy, liệu pháp
hạ sốt nói chung không đặc hiệu, không ảnh hưởng đến tiến trình của bệnh cơ
bản, và có thể che lấp tình trạng bệnh của người bệnh.
- Chống chỉ định: Người bệnh nhiều lần thiếu máu hoặc có bệnh tim, phổi,
thận hoặc gan. Người bệnh quá mẫn với paracetamol. Người bệnh thiếu hụt
glucozơ-6-phosphat dehydro-genat (G6PD)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10