Luận văn Xây dựng E-Learning chương “liên kết hóa học và cấu tạo phân tử” học phần hóa đại cương trường Cao đẳng Giao Thông vận tải 3

1. Lý do chọn đềtài E-learning là một phương thức dạy học mới dựa trên công nghệthông tin và truyền thông (CNTT&TT). Với e-learning, việc học là linh hoạt và mở. Người học có thểhọc bất kì lúc nào, bất kì ở đâu, với bất kì ai, học những vấn đềbản thân quan tâm, phù hợp với năng lực và sởthích, phù hợp với yêu cầu công việc mà chỉcần có phương tiện là máy tính và mạng Internet. E-learning là một giải pháp hữu hiệu đểgiải quyết vấn đề đặt ra hiện nay: việc học tập không chỉbó gọn trong học ởphổ thông, ởhọc đại học mà là học suốt đời. Phương thức học tập này có tính tương tác cao, sẽhỗtrợvà bổsung cho các phương thức đào tạo truyền thống góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Việt Nam gia nhập tổchức thương mại thếgiới WTO khi nền kinh tếthếgiới đang bước vào giai đoạn kinh tếtri thức. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quảchất lượng giáo dục đào tạo là một trong những nhân tốquyết định sựtồn tại và phát triển của đất nước và cá nhân. E-learning sẽlà một phương thức dạy và học rất phù hợp trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu xã hội khi nước ta gia nhập WTO. E-learning thuộc mô hình giáo dục “tri thức”, là mô hình giáo dục hiện đại nhất, hình thành khi xuất hiện thành tựu mới quan trọng nhất của CNTT&TT là mạng Internet. Mô hình này đã tạo ra những yếu tốthay đổi sâu sắc trong giáo dục: yếu tốthời gian và không gian sẽkhông còn bịràng buộc chặt chẽ, sinh viên (SV) tham gia học tập mà không cần đến trường đại học. Sựchuyển giao tri thức không còn chiếm vịtrí hàng đầu của giáo dục, SV phải học cách truy tìmthông tin bản thân cần, đánh giá và xửlý thông tin đểbiến thành tri thức qua giao tiếp. E-learning đang là xu hướng chung của giáo dục thếgiới. Việc triển khai e-learning trong giáo dục đào tạo là một hướng đi tất yếu nhằm đưa giáo dục Việt Nam tiếp cận với nền giáo dục thếgiới. SV Việt Nam nói chung và SV trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3 (CĐ GTVT3) nói riêng, hiện tại vẫn quen với cách học truyền thống: thụ động, chưa tự mình tìm đến kiến thức, chưa học theo nhu cầu, năng lực, sởthích thật sựcủa bản thân. Vì vậy, việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo cần bao gồm cả việc giúp SV tiếp cận với cách học chủ động, tựtìm hiểu, tựkiểm tra đánh giá, tích cực trao đổi với giảng viên (GV), bạn bè. E-learning là một trong những phương thức giúp SV chủ động vềthời gian học tập, nội dung học tập, khối lượng kiến thức, tựkiểm tra đánh giá, dễdàng trao đổi thông tin Tin học hóa quản lý đào tạo và giáo dục đang là xu hướng chung trong giáo dục đào tạo ởViệt Nam, và trường CĐGTVT3 cũng không ngoại lệ. Việc xây dựng e-learning với mục đích đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng đầu ra của SV không nằm ngoài mục tiêu của trường. Hiện nay có rất nhiều trường đại học đầu tưxây dựng chương trình e-learning, tuy nhiên phần lớn là cho các chuyên ngành kinh tế, ngoại ngữ, tin học Sốtrường sửdụng kết hợp e-learning với phương pháp truyền thống trong việc dạy học bộ môn Hóa đại cương (HĐC) là rất ít và đang ởgiai đoạn hình thành. Xuất phát từnhững lý do trên, chúng tôi nghiên cứu đềtài: “XÂY DỰNG E-LEARNING CHƯƠNG “LIÊN KẾT HÓA HỌC VÀ CẤU TẠO PHÂN TỬ” HỌC PHẦN HÓA ĐẠI CƯƠNG TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI 3”. 2. Mục đích nghiên cứu Xây dựng e-learning chương liên kết hóa học và cấu tạo phân tử (LKHH&CTPT) thuộc học phần HĐC trường CĐGTVT3, nhằm nâng cao chất lượng học tập và góp phần đưa SV tiếp cận với phương thức học tập hiện đại dựa trên CNTT&TT. 3. Khách thểvà đối tượng nghiên cứu Khách thểnghiên cứu: quá trình dạy học bộmôn HĐC ởtrường Đại học, Cao đẳng. Đối tượng nghiên cứu: chương trình e-learning chương “LKHH&CTPT” học phần HĐC ởtrường CĐGTVT3. 4. Nhiệm vụcủa đềtài Đểthực hiện đềtài cần phải thực hiện các nhiệm vụsau:  Nghiên cứu những đặc điểm cơbản và cách thức khai thác, ứng dụng e-learning.  Nghiên cứu cơsởlý luận việc dạy và học bằng e-learning, cách thức xây dựng chương trình e-learning.  Nghiên cứu phương pháp dạy và học HĐC bằng e-learning.  Xây dựng chương trình e-learning chương “LKHH&CTPT” dùng dạy học học phần HĐC trường CĐGTVT3.  Tiến hành thực nghiệm sưphạm nhằm xác định hiệu quảcủa đềtài và đềxuất việc ứng dụng e-learning trong dạy học HĐC. 5. Phạm vi nghiên cứu Giới hạn nội dung vấn đềnghiên cứu: xây dựng e-learning hỗtrợviệc dạy học HĐC với nội dung thuộc chương “LKHH&CTPT” chương trình HĐC trường CĐ GTVT3. Đối tượng thực nghiệm: SV trường CĐGTVT3. 6. Giảthuyết khoa học Nếu sửdụng kết hợp e-learning với phương pháp dạy học truyền thống một cách có hiệu quảsẽgiúp SV tiếp cận với phương thức học tập hiện đại, làm nền tảng cho việc xây dựng toàn bộchương trình e-learning HĐC, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộmôn HĐC ởtrường CĐGTVT3 nói riêng cũng nhưcác trường đại học cao đẳng nói chung. 7. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu lý luận:  Đọc và nghiên cứu vềlý luận dạy học dựa trên CNTT&TT, hệthống quản lý học tập, nghiên cứu tài liệu vềcách thức, phương pháp xây dựng chương trình e-learning.  Đọc và nghiên cứu các tài liệu vềlý luận dạy học đại học, tâm lý học, đặc biệt tâm lý khi học bằng phương tiện máy tính và mạng internet và các tài liệu khoa học khác liên quan đến đềtài.

pdf126 trang | Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 1763 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng E-Learning chương “liên kết hóa học và cấu tạo phân tử” học phần hóa đại cương trường Cao đẳng Giao Thông vận tải 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Thùy Linh XÂY DỰNG E-LEARNING CHƯƠNG “LIÊN KẾT HÓA HỌC VÀ CẤU TẠO PHÂN TỬ” HỌC PHẦN HÓA ĐẠI CƯƠNG TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI 3 Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Hóa Học Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ PHI THÚY Thành phố Hồ Chí Minh – 2008 LỜI CẢM ƠN Tác giả luận văn xin gởi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến TS. Lê Phi Thúy, người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn cao học và tạo mọi điều kiện để tác giả có thể hoàn thành luận văn. Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học, các Thầy Cô Khoa Hóa học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành luận văn đúng thời hạn. Tác giả xin cảm ơn các bạn cùng lớp đã luôn đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ, động viên nhau trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu. Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên trong thời gian học tập, nghiên cứu để tác giả có thể hoàn thành luận văn này. Nguyễn Thị Thùy Linh DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNTT&TT : Công nghệ thông tin và truyền thông CBT : Computer Base Training (đào tạo trên cở sở máy tính) ĐC : Đối chứng ĐHQG : Đại học Quốc gia GV : Giảng viên HĐC : Hóa đại cương LKHH&CTPT : Liên kết hoá học và cấu tạo phân tử LMS : Learning Management System hệ thống quản lý khóa học) SCORM : Sharable Content Object Reference Model (là một chuẩn đóng gói nội dung giáo dục) SV : Sinh viên Tkđ : Đại lượng kiểm định T (Student) T k, : Giá trị T tra theo bảng với mức ý nghĩa α và bậc tự do k TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh TN : Thực nghiệm MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài E-learning là một phương thức dạy học mới dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT). Với e-learning, việc học là linh hoạt và mở. Người học có thể học bất kì lúc nào, bất kì ở đâu, với bất kì ai, học những vấn đề bản thân quan tâm, phù hợp với năng lực và sở thích, phù hợp với yêu cầu công việc… mà chỉ cần có phương tiện là máy tính và mạng Internet. E-learning là một giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề đặt ra hiện nay: việc học tập không chỉ bó gọn trong học ở phổ thông, ở học đại học mà là học suốt đời. Phương thức học tập này có tính tương tác cao, sẽ hỗ trợ và bổ sung cho các phương thức đào tạo truyền thống góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO khi nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn kinh tế tri thức. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục đào tạo là một trong những nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của đất nước và cá nhân. E-learning sẽ là một phương thức dạy và học rất phù hợp trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu xã hội khi nước ta gia nhập WTO. E-learning thuộc mô hình giáo dục “tri thức”, là mô hình giáo dục hiện đại nhất, hình thành khi xuất hiện thành tựu mới quan trọng nhất của CNTT&TT là mạng Internet. Mô hình này đã tạo ra những yếu tố thay đổi sâu sắc trong giáo dục: yếu tố thời gian và không gian sẽ không còn bị ràng buộc chặt chẽ, sinh viên (SV) tham gia học tập mà không cần đến trường đại học. Sự chuyển giao tri thức không còn chiếm vị trí hàng đầu của giáo dục, SV phải học cách truy tìm thông tin bản thân cần, đánh giá và xử lý thông tin để biến thành tri thức qua giao tiếp. E-learning đang là xu hướng chung của giáo dục thế giới. Việc triển khai e-learning trong giáo dục đào tạo là một hướng đi tất yếu nhằm đưa giáo dục Việt Nam tiếp cận với nền giáo dục thế giới. SV Việt Nam nói chung và SV trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3 (CĐ GTVT3) nói riêng, hiện tại vẫn quen với cách học truyền thống: thụ động, chưa tự mình tìm đến kiến thức, chưa học theo nhu cầu, năng lực, sở thích thật sự của bản thân. Vì vậy, việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo cần bao gồm cả việc giúp SV tiếp cận với cách học chủ động, tự tìm hiểu, tự kiểm tra đánh giá, tích cực trao đổi với giảng viên (GV), bạn bè. E-learning là một trong những phương thức giúp SV chủ động về thời gian học tập, nội dung học tập, khối lượng kiến thức, tự kiểm tra đánh giá, dễ dàng trao đổi thông tin… Tin học hóa quản lý đào tạo và giáo dục đang là xu hướng chung trong giáo dục đào tạo ở Việt Nam, và trường CĐ GTVT3 cũng không ngoại lệ. Việc xây dựng e-learning với mục đích đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng đầu ra của SV không nằm ngoài mục tiêu của trường. Hiện nay có rất nhiều trường đại học đầu tư xây dựng chương trình e-learning, tuy nhiên phần lớn là cho các chuyên ngành kinh tế, ngoại ngữ, tin học… Số trường sử dụng kết hợp e-learning với phương pháp truyền thống trong việc dạy học bộ môn Hóa đại cương (HĐC) là rất ít và đang ở giai đoạn hình thành. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “XÂY DỰNG E-LEARNING CHƯƠNG “LIÊN KẾT HÓA HỌC VÀ CẤU TẠO PHÂN TỬ” HỌC PHẦN HÓA ĐẠI CƯƠNG TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI 3”. 2. Mục đích nghiên cứu Xây dựng e-learning chương liên kết hóa học và cấu tạo phân tử (LKHH&CTPT) thuộc học phần HĐC trường CĐ GTVT3, nhằm nâng cao chất lượng học tập và góp phần đưa SV tiếp cận với phương thức học tập hiện đại dựa trên CNTT&TT. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học bộ môn HĐC ở trường Đại học, Cao đẳng. Đối tượng nghiên cứu: chương trình e-learning chương “LKHH&CTPT” học phần HĐC ở trường CĐ GTVT3. 4. Nhiệm vụ của đề tài Để thực hiện đề tài cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:  Nghiên cứu những đặc điểm cơ bản và cách thức khai thác, ứng dụng e- learning.  Nghiên cứu cơ sở lý luận việc dạy và học bằng e-learning, cách thức xây dựng chương trình e-learning.  Nghiên cứu phương pháp dạy và học HĐC bằng e-learning.  Xây dựng chương trình e-learning chương “LKHH&CTPT” dùng dạy học học phần HĐC trường CĐGTVT3.  Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm xác định hiệu quả của đề tài và đề xuất việc ứng dụng e-learning trong dạy học HĐC. 5. Phạm vi nghiên cứu Giới hạn nội dung vấn đề nghiên cứu: xây dựng e-learning hỗ trợ việc dạy học HĐC với nội dung thuộc chương “LKHH&CTPT” chương trình HĐC trường CĐ GTVT3. Đối tượng thực nghiệm: SV trường CĐ GTVT3. 6. Giả thuyết khoa học Nếu sử dụng kết hợp e-learning với phương pháp dạy học truyền thống một cách có hiệu quả sẽ giúp SV tiếp cận với phương thức học tập hiện đại, làm nền tảng cho việc xây dựng toàn bộ chương trình e-learning HĐC, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn HĐC ở trường CĐ GTVT3 nói riêng cũng như các trường đại học cao đẳng nói chung. 7. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu lý luận:  Đọc và nghiên cứu về lý luận dạy học dựa trên CNTT&TT, hệ thống quản lý học tập, nghiên cứu tài liệu về cách thức, phương pháp xây dựng chương trình e-learning.  Đọc và nghiên cứu các tài liệu về lý luận dạy học đại học, tâm lý học, đặc biệt tâm lý khi học bằng phương tiện máy tính và mạng internet và các tài liệu khoa học khác liên quan đến đề tài.  Phân tích và tổng hợp lý thuyết. Nghiên cứu thực tiễn, các điều tra cơ bản:  Dùng phiếu điều tra thăm dò hiểu biết của SV về e-learning.  Thăm dò ý kiến SV trường CĐ GTVT3 sau khi học chương LKHH&CTPT bằng cách kết hợp giữa phương pháp truyền thống với e-learning.  Dùng phiếu điều tra thăm dò ý kiến của GV về website e-learning HĐC. Thực nghiệm sư phạm: tiến hành lên lớp có kết hợp e-learning và không kết hợp e-learning để so sánh kết quả học tập. Tổng hợp, xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê toán học. 8. Điểm mới của luận văn Nghiên cứu đưa ra cách thức xây dựng chương trình e-learning cho bộ môn HĐC. Nghiên cứu về việc dạy học kết hợp e-learning với phương thức dạy học truyền thống. Đánh giá sơ bộ chương trình e-learning, tâm lý SV khi học với e-learning, từ đó đưa ra những đóng góp cho cách thức xây dựng chương trình e-learning HĐC và cách thức dạy học HĐC bằng e-learning phù hợp hơn, hiệu quả hơn. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Lịch sử phát triển của e-learning [12] Thuật ngữ e-learning đã trở nên quen thuộc trên thế giới trong một vài thập kỷ gần đây. Cùng với sự phát triển của Tin học và mạng truyền thông, các phương thức giáo dục, đào tạo ngày càng được cải tiến nhằm nâng cao chất lượng, tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho người học. Ngay từ khi mới ra đời, e-learning đã xâm nhập vào hầu hết các hoạt động huấn luyện đào tạo của các nước trên thế giới. Tập đoàn dữ liệu quốc tế nhận định rằng sẽ có một sự phát triển bùng nổ trong lĩnh vực e- learning. Và điều đó đã được chứng minh qua sự thành công của các hệ thống thống giáo dục hiện đại có sử dụng phương pháp e-learning của nhiều quốc gia như Mỹ, Anh, Nhật,… Gắn với sự phát triển của công nghệ thông tin và phương pháp giáo dục đào tạo, quá trình phát triển của e-learning có thể chia ra thành 4 thời kỳ như sau:  Trước năm 1983: thời kì này máy tính chưa được sử dụng rộng rãi, phương pháp giáo dục “Lấy GV làm trung tâm” là phương pháp phổ biến nhất trong các trường đại học.  Giai đoạn 1984 – 1993: sự ra đời của hệ điều hành Windows 3.1, máy tính Macintosh, phần mềm trình diễn Powerpoint, cùng các công cụ đa phương tiện khác đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên đa phương tiện. Những công cụ này cho phép tạo ra những bài giảng có tích hợp âm thanh và hình ảnh dựa trên công nghệ Computer Base Training (CBT). Bài học được phân phối qua đĩa CD-ROM hoặc đĩa mềm. Vào bất kì thời gian nào, ở đâu, người học đều có thể mua và tự học. Tuy nhiên, sự hướng dẫn của GV là rất hạn chế.  Giai đoạn 1993 – 1999: khi công nghệ web được phát minh, các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục đào tạo bắt đầu nghiên cứu cách thức cải tiến phương pháp giáo dục bằng công nghệ này. Các chương trình: Email, Web, trình duyệt, Media player, kỹ thuật truyền Audio/Video tốc độ thấp cùng với ngôn ngữ hỗ trợ Web như HTML, JAVA bắt đầu trở nên thông dụng và đã làm thay đổi bộ mặt của đào tạo bằng đa phương tiện.  Giai đoạn 2000 – đến nay: các công nghệ tiên tiến bao gồm JAVA và các ứng dụng mạng IP, công nghệ truy cập mạng và băng thông Internet rộng, các công nghệ thiết kế web tiên tiến đã trở thành một cuộc cách mạng trong giáo dục và đào tạo. Ngày nay thông qua web, GV có thể hướng dẫn trực tuyến (hình ảnh, âm thanh, các công cụ trình diễn) tới mọi người học. Càng ngày công nghệ web càng chứng tỏ có khả năng mang lại hiệu quả cao trong giáo dục đào tạo, cho phép đa dạng hóa các môi trường học tập. Điều này đã tạo ra một cuộc cách mạng trong đào tạo với giá thành rẻ, chất lượng cao và hiệu quả. Đó chính là kỷ nguyên của e-learning. 1.1.2. Tình hình phát triển và ứng dụng e-learning trên thế giới [28], [32], [37] E-learning phát triển không đồng đều tại các khu vực trên thế giới. E-learning phát triển mạnh nhất ở khu vực Bắc Mỹ, tiếp đến là ở châu Âu, ở châu Á ít ứng dụng công nghệ này. Tại Mỹ, e-learning đã nhận được sự ủng hộ và các chính sách trợ giúp của Chính phủ ngay từ cuối những năm 90. Theo số liệu thống kê của Hội Phát triển và Đào tạo Mỹ (American Society for Training and Development, ASTD), năm 2000 Mỹ có gần 47% các trường đại học, cao đẳng đã đưa ra các dạng khác nhau của mô hình đào tạo từ xa, tạo nên 54.000 khoá học trực tuyến. E-learning không chỉ được triển khai ở các trường đại học mà ngay ở các công ty việc xây dựng và triển khai cũng diễn ra rất mạnh mẽ. Có rất nhiều công ty thực hiện việc triển khai e-learning thay cho phương thức đào tạo truyền thống và đã mang lại hiệu quả cao. Do thị trường rộng lớn và sức thu hút mạnh mẽ của e-learning nên hàng loạt các công ty đã chuyển sang hướng chuyên nghiên cứu và xây dựng các giải pháp về e-learning như: Click2Learn, Global Learning Systems, Smart Force... Trong những năm gần đây, châu Âu đã có một thái độ tích cực đối với việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc biệt là ứng dụng trong hệ thống giáo dục. Các nước trong Cộng đồng châu Âu đều nhận thức được tiềm năng to lớn mà công nghệ thông tin mang lại trong việc mở rộng phạm vi, làm phong phú thêm nội dung và nâng cao chất lượng của nền giáo dục. Ngoài việc tích cực triển khai e-learning tại mỗi nước, giữa các nước châu Âu có nhiều sự hợp tác đa quốc gia trong lĩnh vực e-learning. Điển hình là dự án xây dựng mạng xuyên châu Âu EuroPACE. Đây là mạng e-learning của 36 trường đại học hàng đầu châu Âu thuộc các quốc gia như Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Anh, Pháp cùng hợp tác với công ty e-learning Docent của Mỹ nhằm cung cấp các khoá học về các lĩnh vực như khoa học, nghệ thuật, con người phù hợp với nhu cầu học của các SV đại học, sau đại học, các nhà chuyên môn ở châu Âu. Tại châu Á, e-learning vẫn đang ở trong tình trạng sơ khai, chưa có nhiều thành công vì một số lý do như: các quy tắc, luật lệ bảo thủ, sự ưa chuộng đào tạo truyền thống của văn hóa châu Á, vấn đề ngôn ngữ không đồng nhất, cơ sở hạ tầng nghèo nàn và nền kinh tế lạc hậu ở một số quốc gia châu Á. Tuy vậy, đó chỉ là những rào cản tạm thời. Do các cơ sở giáo dục truyền thống ngày càng không thể đáp ứng nhu cầu đào tạo, buộc các quốc gia châu Á đang dần dần phải thừa nhận tiềm năng to lớn mà e-learning mang lại. Một số quốc gia, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển tại châu Á cũng đang có những nỗ lực phát triển e-learning như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan,Trung Quốc,... Nhật Bản là nước có ứng dụng e-learning nhiều nhất so với các nước khác trong khu vực. Môi trường ứng dụng e-learning chủ yếu là trong các công ty lớn, các hãng sản xuất, các doanh nghiệp... và dùng để đào tạo nhân viên. 1.1.3. Tình hình phát triển và ứng dụng e-learning ở Việt Nam Việt Nam bắt đầu quan tâm đến e-learning khoảng từ năm 2000. Hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo ĐHQGHN năm 2000, Hội nghị giáo dục đại học năm 2001 đã có đề cập đến e-learning. Tuy vậy, Vào khoảng năm 2002 trở về trước các tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu về e-learning ở Việt Nam không nhiều. Trong hai năm 2003-2004, việc nghiên cứu e-learning ở Việt Nam đã được nhiều đơn vị quan tâm hơn. Gần đây các hội nghị, hội thảo về công nghệ thông tin và giáo dục đều có đề cập nhiều đến vấn đề e-learning và khả năng áp dụng vào môi trường đào tạo ở Việt Nam như [37]:  Hội thảo khoa học quốc gia lần thứ nhất về nghiên cứu phát triển và ứng dụng CNTT&TT ICT/rda 2/2003, lần thứ hai là ICT/rda 9/2004, lần thứ ba là ICT/rda /2006.  Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và triển khai E-learning” do Viện Công nghệ Thông tin (ĐHQG Hà Nội) và Khoa Công nghệ Thông tin (Đại học Bách khoa Hà Nội) phối hợp tổ chức đầu tháng 3/2005 là hội thảo khoa học về E-learning đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam.  Hội thảo lần thứ tư nghiên cứu phát triển và ứng dụng CNTT&TT ICT/rda dự kiến tổ chức vào tháng 8/2008. Bên cạnh đó, một số công ty phần mềm ở Việt Nam đã tung ra thị trường những sản phẩm hỗ trợ đào tạo. Tuy các sản phẩm này chưa phải là sản phẩm lớn, được đóng gói hoàn chỉnh nhưng đã bước đầu góp phần thúc đẩy sự phát triển e-learning ở Việt Nam. Việt Nam đã gia nhập mạng e-learning châu Á (Asia E-learning Network - AEN, www.asia-elearning.net) với sự tham gia của Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Khoa học - Công nghệ, trường Đại học Bách khoa, Bộ Bưu chính Viễn thông... Có thể thấy tình hình nghiên cứu và ứng dụng e-learning đang được quan tâm ở Việt Nam. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực, Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu và để tiến kịp các nước còn rất nhiều việc phải làm. Các trường đại học ở Việt Nam cũng bước đầu nghiên cứu và triển khai e-learning. Một số đơn vị đã triển khai các phần mềm hỗ trợ đào tạo và cho các kết quả khả quan: Đại học Công nghệ – ĐHQG Hà Nội, Viện CNTT – ĐHQG Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, ĐHQG TP.HCM, Học viện Bưu chính Viễn thông,... Gần đây nhất, Trung tâm Tin học Bộ Giáo dục & Đào tạo đã triển khai cổng e- learning nhằm cung cấp một cách có hệ thống các thông tin e-learning trên thế giới và ở Việt Nam. Tuy nhiên, phần lớn các chương trình e-learning được xây dựng ở các trường đại học nhằm phục vụ cho công tác đào tạo từ xa. Hơn nữa, chương trình chủ yếu là các bộ môn thuộc chuyên ngành kinh tế, công nghệ thông tin hay ngoại ngữ. Các chuyên ngành khác hay các bộ môn đại cương hầu như chỉ đang ở giai đoạn thử nghiệm. Việc xây dựng chương trình e-learning dùng kết hợp giảng dạy với phương thức truyền thống hầu như rất ít. Việc xây dựng một chương trình e-learning HĐC sử dụng cho việc kết hợp với phương pháp dạy học truyền thống là chưa được nghiên cứu và thử nghiệm rộng rãi. 1.2. Lý luận dạy học dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông 1.2.1. Khái niệm dạy học dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông CNTT&TT hay còn được viết là ICT (Information and Communication Technologies) là [49]: “Một tập hợp đa dạng các công cụ và tài nguyên công nghệ được sử dụng để giao tiếp, tạo ra, phổ biến, lưu giữ và quản lý thông tin. Các công nghệ này bao gồm máy tính, điện thoại, internet, vô tuyến truyền hình, đài phát thanh…” CNTT&TT được coi là những công cụ tiềm năng mạnh mẽ, có khả năng tạo ra những thay đổi và cải cách giáo dục. Ở đó, những cơ cấu cứng nhắc theo truyền thống về mối quan hệ “không gian – thời gian – trật tự thang bậc” sẽ bị phá vỡ. Chẳng hạn, việc phát sóng chương trình giáo dục trên đài hay vô tuyến không cần thiết phải có GV và học viên tại cùng một địa điểm vật lý. Bài học, bài tập, bài giảng,… được ghi vào đĩa CD hoặc được đưa lên mạng internet, nhờ đó mọi người có thể học bất kì khi nào. Những diễn đàn trao đổi về mọi vấn đề, những buổi hội thảo trực tuyến... sẽ giúp cho người học có thể học mọi lúc, mọi nơi, mọi lứa tuổi, bất kì ai có khả năng và mong muốn đều học được [52]. Với sự phát triển như vũ bão của CNTT&TT, những thành tựu và sản phẩm mới liên tục ra đời, trong đó thành tựu quan trọng nhất là mạng Internet thì việc tạo ra, phổ biến, lưu giữ và quản lý, trao đổi thông tin là rất dễ dàng. Vì vậy, trong những năm gần đây, người ta thường đặc biệt quan tâm đến việc làm thế nào để khai thác một cách hiệu quả nhất máy tính và Internet nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở mọi cấp độ, mọi cơ sở đào tạo và mọi hình thức đào tạo. Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, việc dạy học dựa trên CNTT&TT được định nghĩa là việc ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông đặc biệt là máy tính và mạng Internet vào việc dạy học nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo. E-learning là một trong những cách thức dạy học dựa trên CNTT&TT. 1.2.2. Khái niệm e-learning 1.2.2.1. Khái niệm Có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về e-learning, dưới đây sẽ trích ra một số định nghĩa e-learning đặc trưng nhất [12], [19], [20], [30]:  E-learning là sử dụng các công nghệ Web và Internet trong học tập.  E-learning là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên CNTT&TT.  Việc học tập hay đào tạo được chuẩn bị, truyền tải hoặc quản lý sử dụng nhiều công cụ của CNTT&TT và được thực hiện ở mức cục bộ hay toàn cục được gọi là e-learning.  Việc học tập được truyền tải, hỗ trợ qua công nghệ điện tử và qua nhiều kĩ thuật khác nhau như Internet, TV, video tape, các hệ thống giảng dạy thông minh, và việc đào tạo dựa trên máy tính CBT gọi là e-learning.  Việc truyền tải các hoạt động, quá trình, và sự kiện đào tạo và học tập thông qua các phương tiện điện tử như Internet, intranet, extranet, CD- ROM, video tape, DVD, TV, các thiết bị cá nhân... gọi là e-learning.  "Việc sử dụng công nghệ để tạo ra, đưa các dữ liệu có giá