Trong hơn nửa thế kỷ qua, ở nhiều nước trên thế giới, hệ thống ngân hàng đã thực sự trở thành một ngành công nghiệp quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế quốc dân. Sự thay đổi của hệ thống ngân hàng luôn phản ánh tình hình tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế.
Qua thực tiễn gần 15 năm hoạt động và đổi mới, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần vào xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên quá trình vận hành theo cơ chế mới hệ thống ngân hàng ngày càng bộc lộ nhiều điểm yếu kém, tồn tại và bất cập. Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam đang nắm giữ một khối lượng lớn các khoản nợ tồn đọng (khoảng 23000 tỷ VNĐ) vượt vốn tự có của ngân hàng. Tình trạng này làm cho nền kinh tế bị đóng băng một lượng vật chất lớn không được khai thác, các ngân hàng sẽ trở lên khó khăn trong việc huy động nguồn vốn mới và hiệu quả hoạt động sẽ nhanh chóng giảm sút. Theo kinh nghiệm quốc tế qua nhiều cuộc khủng hoảng nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực từ năm 1997 cho thấy: Nợ quá hạn tồn đọng nếu không giải quyết một cách cơ bản và nhanh chóng sẽ gây tác động tiêu cực cho hệ thống ngân hàng và khó tránh khỏi nguy cơ đổ vỡ đối với nền kinh tế Việt Nam.
Xuất phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nước, theo chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang nỗ lực giải quyết vấn đề nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá hoạt động tài chính. Hiện nay các giải pháp của các Ngân hàng thương mại đang tiến hành trong việc xóa các khoản nợ tồn đọng với chi phí rất lớn nhưng hiệu quả lại chưa cao. Nếu không có các giải pháp thúc đẩy thì mục tiêu tái cơ cấu của ngân hàng khó có thể trở thành hiện thực.
99 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1719 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng mô hình chứng khoán hóa các khoản nợ trong quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hóa tài chính của hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Xây dựng mô hình chứng khoán hóa các khoản nợ trong quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hóa tài chính của hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam (Lấy Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam làm điểm nghiên cứu)
LỜI MỞ ĐẦU
***
Trong hơn nửa thế kỷ qua, ở nhiều nước trên thế giới, hệ thống ngân hàng đã thực sự trở thành một ngành công nghiệp quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế quốc dân. Sự thay đổi của hệ thống ngân hàng luôn phản ánh tình hình tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế.
Qua thực tiễn gần 15 năm hoạt động và đổi mới, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần vào xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên quá trình vận hành theo cơ chế mới hệ thống ngân hàng ngày càng bộc lộ nhiều điểm yếu kém, tồn tại và bất cập. Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam đang nắm giữ một khối lượng lớn các khoản nợ tồn đọng (khoảng 23000 tỷ VNĐ) vượt vốn tự có của ngân hàng. Tình trạng này làm cho nền kinh tế bị đóng băng một lượng vật chất lớn không được khai thác, các ngân hàng sẽ trở lên khó khăn trong việc huy động nguồn vốn mới và hiệu quả hoạt động sẽ nhanh chóng giảm sút. Theo kinh nghiệm quốc tế qua nhiều cuộc khủng hoảng nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực từ năm 1997 cho thấy: Nợ quá hạn tồn đọng nếu không giải quyết một cách cơ bản và nhanh chóng sẽ gây tác động tiêu cực cho hệ thống ngân hàng và khó tránh khỏi nguy cơ đổ vỡ đối với nền kinh tế Việt Nam.
Xuất phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nước, theo chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang nỗ lực giải quyết vấn đề nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá hoạt động tài chính. Hiện nay các giải pháp của các Ngân hàng thương mại đang tiến hành trong việc xóa các khoản nợ tồn đọng với chi phí rất lớn nhưng hiệu quả lại chưa cao. Nếu không có các giải pháp thúc đẩy thì mục tiêu tái cơ cấu của ngân hàng khó có thể trở thành hiện thực.
Thấy rõ được điều này, trong quá trình tìm hiểu về hệ thống các Ngân hàng thương mại Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm thị trường tài chính thế giới em thấy có một công cụ tài chính rất hiệu quả trong xử lý nợ tồn đọng của ngân hàng, đó là chứng khoán hoá các khoản nợ. Với mong muốn góp ý kiến vào quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá hoạt động tài chính của hệ thống các NHTM thông qua hoạt động chứng khoán hóa em xin trình bầy những nhận thức của mình về các điều kiện và mô hình vận hành chứng khoán hoá tại Việt nam.
Bố cục của đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về chứng khoán hoá các khoản nợ trong ngân hàng thương mại
Chương II: Mô hình chứng khoán hóa các khoản nợ tồn đọng của hệ thống các NHTM Việt Nam
Chương III: Giải pháp thực hiện mô hình chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng trong quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá tài chính của các NHTM.
Trong quá trình hoàn thành khoá luận tốt nghiệp, do còn hạn chế về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn, thời gian và tài liệu nên chắc chắn khóa luận còn nhiều thiếu sót, em mong muốn nhận được ý kiến đóng góp để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG KHOÁN HOÁ
CÁC KHOẢN NỢ TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
***
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ CHỨNG KHOÁN HOÁ CÁC KHOẢN NỢ
1.Khái niệm chứng khoán hoá
Khái niệm chứng khoán hoá chính thức xuất hiện trong những năm 70.
"Chứng khoán hóa là việc phát hành ra các trái quyền dưới dạng các chứng khoán có thể bán trên thị trường trên cơ sở một tập hợp các tài sản đảm bảo cho nó"
Mục tiêu của chứng khoán hóa là chuyển các tài sản có tính lỏng thấp thành tài sản có tính lỏng cao.
Tính lỏng thấp Tính lỏng cao
Hình 1: Minh hoạ mục tiêu của chứng khoán hoá
*Vài nét sơ lược về quá trình phát triển của chứng khoán hóa
+Sự ra đời chứng khoán thế chấp nhà
Vào năm 1970, Hiệp hội cho vay nhà thế chấp liên bang đã phát hành chứng khoán được bảo đảm bởi khoản thế chấp nhà, viết tăt là MBS đầu tiên tại Mỹ. Ngay năm sau đó, Công ty mua bán nhà thế chấp liên bang đã phát hành MBS. Những chứng khoán đầu tiên của chính phủ phát hành có cấu trúc tương đối đơn giản mà không có sự phân bổ đặc biệt nào về dòng tiền hoặc sự tăng cường tín dụng. Thực chất trong trường hợp này việc tăng cường tín dụng là không cần thiết bởi các chứng khoán được phát hành với sự bảo lãnh của chính phủ nên có điểm xếp hạng tín dụng rất cao. Rủi ro duy nhất gặp phải là rủi ro trả trước vì những người vay mua nhà thế chấp không chịu bất kỳ khoản phạt nào trong trường hợp họ thanh toán trước. Hậu quả là khi nào lãi suất trên thị trường có xu hướng giảm người đi vay thường thanh toán khoản vay trước hạn còn người nắm giữ chứng khoán buộc phải tái đầu tư vốn gốc với thu nhập không dự tính trước.
+Sự ra đời chứng khoán bảo đảm bằng tài sản cầm cố
Vào năm 1983, Công ty Boston đã phát hành thêm một loại hình công cụ tài chính mới được bảo đảm bằng các tài sản cầm cố CMO. Sự khác nhau cơ bản giữa CMO và MBS là CMO giúp ngân hàng chuyển khoản vay có thế chấp bằng bất động sản từ nội bảng ra hạch toán ngoại bảng và sau khi phát hành nó được phân thành nhiều hạng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.
+Sự ra đời chứng khoán bảo đảm bởi tài sản
Sự thành công, những kinh nghiệm mà các ngân hàng đầu tư có được từ thị trường MBS đã giúp cho thị trường của công cụ tài chính linh hoạt khác ra đời. Chứng khoán được đảm bảo bởi động sản ABS (Asset Backed Security) được ra đời với sự ủng hộ mạnh mẽ của chính phủ cũng như các ngân hàng đầu tư hàng đầu lúc đó là Solomon Brother, First Boston và Drexel Burhan Lambert.
Chứng khoán loại này được phát hành đầu tiên vào tháng 4 năm 1985 khi mà First Boston bão lãnh phát hành 192 triệu USD chứng khoán trên khoản thuê máy tính của tập đoàn Sperry. Vào tháng 12 năm 1985 General Motors Acceptance .Corp cộng tác với First Boston phát hành lượng chứng khoán giá trị 500 triệu USD. Đồng thời vào năm đó công ty này đã chiếm lĩnh hoàn toàn thị trường này khi phát hành chứng khoán giá trị 8 tỷ USD. Yếu tố tạo nên sự thành công là nó đã hạn chế được rủi ro trả trước, một loại rủi ro thường gặp ở vay mua ô tô.
Vào năm 1987, những chứng khoán đầu tiên phát hành trên cơ sở khoản phải thu của thẻ tín dụng ra đời dưới sự bảo lãnh của Solomon Brother do Banc Gre phát hành. Cũng như các loại chứng khoán khác, chứng khoán hoá thẻ tín dụng đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh chóng và ngày nay nó vẫn chiếm một tỷ trọng khá lớn, đứng đầu là Citibank.
Vào đầu những năm 1990, nhiều ngân hàng, các công ty tài chính trên thế giới gặp phải khó khăn về tài chính. Họ đã nhanh chóng áp dụng mô hình ABS để chứng khoán hoá các khoản vay, loại những khoản nợ xấu, lành mạnh hoá hoạt động tài chính. Công cụ này gọi là CDO (Collateratized Debt Obligation). CDO đã nhanh chóng trở thành một công cụ tài chính quan trọng đối với các tổ chức kinh doanh, đặc biệt là ngân hàng. Và sau này các nhà tài chính trên thế giới còn phát minh ra biến thái của CDO là CLO (Collateratized Debt Obligation) và CBO (Collateratized Bond Obligation). Những công cụ mới như trên trong chứng khoán hoá đã giúp cho giới tài chính trên toàn thế giới có thêm nhiều công cụ cực kỳ mạnh mẽ và linh hoạt tham gia thị trường tài chính thế giới.
Việc nghiên cứu sự phát triển của thị trường chứng khoán hoá cho thấy có rất nhiều cách phân loại các sản phẩm của chứng khoán hoá như chứng khoán trên cơ sở vay nhà thế chấp, trên cơ sở vay tiêu dùng (mua ô tô, phải thu thẻ tín dụng...) hoặc trên cơ sở thương mại (thuê tài chính, giấy tờ thương mại). . . Nhưng trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài và để tiện nghiên cứu ta sẽ tập trung vào nghiên cứu vào CDO và các biến thái của nó để thấy được vai trò vô cùng to lớn của CDO đối với quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng nói riêng cũng như thị trường tài chính hiện đại nói chung.
2.Đặc tính các loại tài sản có thể được chứng khoán hoá
Như ta biết bất cứ doanh nghiệp nào từ doanh nghiệp sản xuất, dịch vụ cho tới nhưng doanh nghiệp đặc biệt như ngân hàng đều nắm giữ rất nhiều các loại tài sản khác nhau. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng không phải bất cứ các loại tài sản nào cũng có thể được chứng khoán hoá. Muốn được chứng khoán hoá tài sản phải có những đặc điểm sau.
2.1.Tài sản phải được quy về dòng tiền
Một yếu tố cơ bản của loại tài sản đem chứng khoán hoá là phải phát sinh một dòng tiền từ con nợ. Giá trị của mỗi dòng tiền lại phụ thuộc vào phương thức thanh toán như đã thoả thuận giữa các bên ban đầu, có thể theo phương thức thanh toán gốc đều, niên kim. . .Trong thực tế ta thấy các khoản vay có tài sản bảo đảm được thực hiện bằng cách người đi vay sẽ đứng ra đem tài sản của mình làm vật thế chấp rồi sẽ vay tiền theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tài sản thế chấp. Sau đó theo kỳ hạn người đó sẽ thanh toán gốc và lãi. Và nguyên tắc cơ bản của chứng khoán hoá là phải luôn có một dòng tiền chảy qua giữa con nợ, chủ nợ, trung gian đặc biệt rồi tới nhà đầu tư. Nếu trong điều kiện bình thường, hoạt động diễn ra suôn sẻ thì chứng khoán hoá sẽ hoạt động về cơ bản là như vậy. Tuy nhiên trong trường hợp lãi suất trên thị trường thấp, con nợ sẽ tìm cách vay tiền để thanh toán cho ngân hàng và ngân hàng chịu rủi ro trả trước (Prepayment risk). Người ta cũng có thể chứng khoán hoá khoản phải thu trên thẻ tín dụng vì nó hàm chứa một dòng tiền. Nhưng điều đáng lưu ý ở đây là dòng tiền của thanh toán thẻ tín dụng sẽ rất bất thường, khó dự đoán được tâm lý của người tiêu dùng. Việc nhận được các khoản phải thu của chủ nợ sẽ phụ thuộc vào nhu cầu cũng như mức thu nhập của người sử dụng thẻ.
2.2.Tính hợp pháp
Để đảm bảo cho các giao dịch chuyển nhượng, điều quan trọng và cần thiết là các loại tài sản có liên quan tới giao dịch chứng khoán hoá phải hợp pháp. Tính hợp pháp ở đây có nghĩa tài sản phải được chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu và không có bất cứ sự tranh chấp nào xảy ra khi nhượng bán. Và đặc biệt là tài sản phải không nằm trong danh mục hàng cấm của nhà nước.
2.3.Tính nhượng bán
Những tài sản đem thế chấp phải là những tài sản có tính nhượng bán tương đối cao trên thị trường. Những tài sản đảm bảo thường là nhà cửa, ô tô, máy tính. . . Đặc tính này nhằm đảm bảo cho các nhà đầu tư trong trường hợp người đi vay bị phá sản thì vẫn có những thứ tài sản đảm bảo thanh toán
2.4.Tính phân tán rủi ro
Tài sản đồng thời cũng phải có tính phân tán rủi ro hoặc rủi ro được đảm bảo bởi một tỷ lệ hỗ trợ tín dụng cần thiết. Ví dụ với một khoản vay tiêu dùng có giá trị tương đối nhỏ, nếu phát hành chứng khoán trên khoản vay đó thì rủi ro quá lớn, do vậy nếu ngân hàng tập hợp rất nhiều khoản vay lại để chứng khoán hoá thì hoạt động thanh toán của một khoản vay sẽ không làm ảnh hưởng hay bóp méo toàn bộ kết quả thanh toán của toàn bộ danh mục. Kết quả là toàn bộ danh mục tài sản có thể được coi là 1 tài sản có thể dự tính được khả năng thanh toán của nó. Trong trường hợp một số tài sản trong danh mục hoạt động tốt, triển vọng thanh toán cao có ảnh hưởng tích cực tới danh mục tài sản cho vay thì sẽ được phân tích theo hướng làm hấp dẫn toàn bộ danh mục đem chứng khoán hoá.
2.5.Tính độc lập với người khởi tạo
Đây là một đặc tính quan trọng có tác dụng làm tăng tính hấp dẫn của các chứng khoán phát hành trên tài sản đó. Sự tồn tại hay khả năng sinh lời của tài sản hoàn toàn độc lập với sự tồn tại của người khởi tạo, thậm chí ngay cả khi người khởi tạo bị phá sản. Để đảm bảo điều này quá trình lập hợp đồng phải rõ ràng, người khởi tạo phải chuyển nhượng hoàn toàn các giấy tờ pháp lý cho trung gian đặc biệt (Special Purpose Vehicle- SPV) và không được dùng tài sản thế chấp nhiều lần vào các mục đích khác. Một yếu tố hấp dẫn cho các chứng khoán là trong lần đi vay ngân hàng đã có sự thẩm định tư cách tín dụng của người đi vay, đồng thời mặc dù đã chuyển nhượng các chứng từ liên quan cho SPV nhưng tổ chức khởi tạo vẫn giám sát hoạt động thanh toán của người đi vay để hưởng phí dịch vụ.
2.6.Tính đồng nhất của tài sản
Quá trình chứng khoán hoá được thực hiện khi người khởi tạo tập hợp các loại tài sản khác nhau lại thành danh mục rồi bán cho SPV. Tiếp đó SPV lại tập hợp các danh mục từ các tổ chức khởi tạo khác nhau để phân tích, làm tăng tính hấp dẫn của tài sản rồi từ đó phát hành chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên nguyên tắc tập hợp tài sản là phải có tính đồng nhất. Ví dụ không thể gộp khoản phải thu từ thẻ tín dụng với khoản phải thu từ vay mua nhà thế chấp vì chúng có sự khác biệt lớn về dòng tiền. Đặc tính này cũng rất quan trọng. Nó yêu cầu bản thân tổ chức khởi tạo cũng như SPV phải phân tích, tính toán để tạo ra được một tập hợp tài sản hợp lý mà đủ lớn.
3.Các thành viên liên quan
Hình 2: Mô hình chứng khoán hoá đơn giản
Một triết lý đơn giản ở đây là: mỗi thành viên tham gia đều phải có những lợi ích nhất định tương xứng sự đóng góp của họ. Do vậy để có thể hiểu được quy trình làm việc của chứng khoán hoá thì cũngcần thiết phải biết được lợi ích của các đối tượng tham gia. Tuy nhiên đề tài chỉ giới hạn trong việc phân tích các thành viên tham gia cơ bản.
Ta sẽ xem xét mô hình chứng khoán hoá đơn giản trên và phân tích các thành viên theo sơ đồ của hoạt động chứng khoán hoá .
3.1.Tổ chức khởi tạo
Người khởi tạo là các doanh nghiệp tài chính hoặc phi tài chính có những khoản mục tài sản cần chứng khoán hoá. Người khởi tạo vì những mục đích khác nhau mà tiến hành chứng khoán hoá khoản mục tài sản trên bảng cân đối tài sản của mình ví dụ như khoản phải thu, khoản cho vay dài hạn, đầu tư dự án... Một đặc điểm nhận thấy rõ ở đây là bản thân tổ chức khởi tạo không phải là người chịu trách nhiệm thanh toán khoản tiền khi đã chuyển quyền nhận các lợi ích từ tài sản cho Trung gian đặc biệt. Do đó, lợi thế đặc biệt khi phát hành các ABS (Assets Backed Security) là dù cho xếp hạng tín dụng của tổ chức khởi tạo thấp thì vẫn có thể phát hành những chứng khoán có chất lượng cao. Ví dụ, tổ chức khởi tạo chỉ xếp hạng Aab vẫn có thể phát hành những chứng khoán xếp hạng AAA. Đồng thời do tài sản độc lập với tổ chức khởi tạo nên dù cho tổ chức khởi tạo có vấn đề về tài chính hoặc lâm vào tình trạng phá sản thì vẫn không ảnh hưởng tới sự chuyển dịch của dòng tiền. Đây được gọi là cơ chế phòng ngừa phá sản (Bankcrupcy remoteness) trong quá trình chứng khoán hoá. Ngoài ra, việc xếp hạng chứng khoán cao không những giúp giảm chi phí nguồn vốn mà còn cho phép các nhà đầu tư lớn như các công ty bảo hiểm, đối tượng thường bị cấm đầu tư vào các tài sản có tính lỏng hoặc xếp hạng thấp, có thể mua các loại chứng khoán này.
3.2.Trung gian đặc biệt (SPV)
Là một tổ chức độc lập hợp pháp (thường là các công ty tài chính, AMC, các quỹ tín thác...) với các biện pháp đặc biệt nhằm tăng tính hấp dẫn của các loại chứng khoán phát hành (tên tiếng Anh là Special Purpose Vehicle – sau đây tạm gọi là SPV). SPV mua lại quyền nhận các khoản phải thu từ tổ chức khởi tạo. Trên cơ sở những nhận định về con nợ của người khởi tạo, đồng thời với những phân tích về tư cách tín dụng riêng đối với cả tổ chức khởi tạo lẫn khách hàng vay vốn SPV định ra một mức giá thích hợp cho khoản phải thu mà nó sẽ mua lại. Ở đây SPV sẽ phải quan tâm tới lãi suất khoản vay, các khoản phí liên quan, phần bù rủi ro đối với khoản vay, tài sản thế chấp. . . Sau đó trên cơ sở những tính toán về thu nhập dự tính và đánh gía rủi ro nó sẽ phát hành chứng khoán có thứ hạng khác nhau ra công chúng đầu tư. Nói chung SPV cũng phải đáp ứng những yêu cầu pháp lý như vốn pháp định, điều lệ hoạt động.
Khi có một sự kiện rủi ro xảy ra dẫn tới sự phá sản của SPV thì những hợp đồng đang thực hiện vẫn sẽ tiếp tục cho đến khi kết thúc nhưng do một SPV khác hoặc tổ chức khởi tạo đảm nhận. Đây cũng là một lá chắn bảo vệ các nhà đầu tư, tạo ra tính hấp dẫn của chứng khoán.
3.3.Nhà đầu tư
Trên thực tế thị trường cho các chứng khoán loại này (ABS) được phát hành hầu hết là các định chế tài chính hoặc phi tài chính, chỉ một số lượng không lớn các nhà đầu tư cá nhân. Các đối tượng này bao gồm các quỹ hưu trí, quỹ tương trợ, công ty bảo hiểm, thậm chí các ngân hàng đâu tư . . . ABS cung cấp cho giới đầu tư một công cụ tài chính có tính an toàn tương đối cao với lợi tức hợp lý mà khó có thể tìm được ở các loại chứng khoán do các tổ chức có thứ hạng tín dụng thấp phát hành. thêm vào đó số lượng lớn các nhà đầu tư đã tạo ra một vòng tuần hoàn ảo làm tăng tính lỏng cho thị trường ABS.
Ngoài ra việc hạch toán ngoại bảng từ phía tổ chức khởi tạo cho phép nhà đầu tư tránh được rủi ro tín dụng liên quan tới người khởi tạo.
3.4.Tổ chức cung cấp dịch vụ tăng cường tín dụng
Như đã nói chứng khoán hoá không thể thành công nếu không có sự bảo lãnh của chính phủ. Với sự tham gia của chính phủ thì khả năng thanh toán của chứng khoán là rất cao. Trong trường hợp không có sự tham gia của chính phủ thì các tổ chức tư nhân sẽ thay thế bằng các biện pháp tăng cường tín dụng. Tăng cường tín dụng có hai hình thức là tăng cường tín dụng trong ( Internal Credit Enhancement) và tăng cường tín dụng ngoài. Các tổ chức này sẽ thu phí thông qua các cam kết hỗ trợ cho chương trình chứng khoán hoá.
3.5.Cơ quan xếp hạng tín dụng
Là một tổ chức độc lập có thể thuộc về chính phủ hoặc giới tư nhân với nhiệm vụ phân tích, đánh giá mức độ rủi ro xếp hạng các chứng khoán và các công ty. Kết quả xếp hạng của họ là căn cứ để các nhà đầu tư ra quyết định. Trên thị trường nợ thế chấp những chứng khoán phát hành có điểm tín dụng AAA sẽ rất được ưa chuộng. Nhưng có một mâu thuẫn là mặc dù là một cơ quan ra quyết định độc lập nhưng khi cho điểm một loại chứng khoán cơ quan này lại nhận phí từ các SPV - đòi hỏi cơ quan này phải cân đối giữa quyền lợi của bản thân với trách nhiệm đối với giới đầu tư. Cũng vì lý do này mặc dù thị trường chứng khoán phát triển rất cao trên toàn thế giới nhưng chỉ có duy nhất 4 cơ quan xếp hạng (Duff &Philips, Fitch IBCA, Standard & Poor's, và Moody' s). Trong số này duy nhất S&P và Moody's có đủ tư cách và tín nhiệm để hoạt động toàn cầu.
4.Điều kiện cần thiết để chứng khoán hoá các khoản nợ
4.1.Cung và cầu trên thị trường
-Nhu cầu bán nợ- cung về chứng khoán hoá: thực tiễn hoạt động của ngân hàng tất yếu phát sinh nợ trong quá trình giao dịch với các chủ thể khác. Các khoản nợ này phát sinh và tồn tại rất đa dạng trong mọi lĩnh vực ngành nghề của nền kinh tế. Đồng thời nhu cầu vốn của tổ chức là rất lớn nên đòi hỏi phải bán nợ để đẩy nhanh vòng tuần hoàn của vốn- nhu cầu bán nợ nảy sinh.
-Nhu cầu mua nợ- cầu về chứng khoán hoá: sự xuất hiện nhu cầu mua nợ của các định chế tài chính đã thay đổi, dần dần trở thành cơ hội kinh doanh của các định chế này. Sự khan hiếm cơ hội đầu tư hấp dẫn, sự hạn chế của các định chế tài chính trong việc đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao, đồng thời sự dư thừa tư bản đã khiến thị trường chứng khoán hoá ra đời
4.2.Sự phát triển cuả nền kinh tế và thị trường tài chính
Sự phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính là một yếu tố quan trọng cho sự phát triển các sản phẩm của chứng khoán hoá. Nhưng không phải theo một quy luật thông thường là cứ hễ nền kinh tế phát triển mạnh thì thị trường này phát triển. Theo kinh nghiệm trên thế giới thì nền kinh tế vừa thoát ra khỏi chu kỳ phát triển chậm thì tốc độ phát triển của chứng khoán hoá lại rất cao. Đó là do những đòi hỏi từ nhu cầu về nguồn vốn cho đầu tư trong thời kỳ bùng nổ kinh tế sắp tới.
4.3.Sự phát triển của công nghệ
ABS đã bắt đầu với sự trợ giúp rất lớn của công nghệ hiện đại. Chứng khoán chuyển qua nguyên thuỷ (pass- through ) được tính toán hết sức đơn giản. Việc phán đoán dòng tiền của chứng khoán thế chấp do các đại lý của chính phủ phát hành ban đầu rất dễ dàng. Cho đến nay thị trường ABS đã có những bước phát triển và mở rộng thêm nhiều loại tài sản mới là kết quả của việc phát kiến ra các mô hình, sức mạnh tính toán, và công nghệ thông tin.
Mô hình mới cho phép các loại tài sản mới có thể nhanh chóng được chứng khoán hoá mà không phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm lịch sử. Nó hạn chế rủi ro khá tốt. Tốc độ mạnh mẽ của máy tính