Luận văn Xây dựng sàn giao dịch sau tài chính tại Việt Nam

Chương I:TỔNG QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG GIAO SAU TÀI CHÍNH1.1 Sơ lược về sự hình thành và phát triển thị trường giao sauCác sử gia cho rằng các hợp đồng giao sau đã xuất hiện ở Nhật vào năm 1600, các lãnh chúa của Nhật đã sử dụng một thị trường mà họ gọi là cho-ai-mai giao dịch gạo qua sổ sách để quản lý sự bất ổn của giá gạo do ảnh hưởng của thời tiết, chiến tranh. Các thị trường giao sau chính thức cũng đã xuất hiện ở Châu Âu - Hà Lan, trong thập niên 1600. Một trong các hợp đồng sau nổi tiếng là hợp đồng hoa Lulip được phát triển trong suốt thời gian cao điểm của “hội chứng hoa tulip” ở Hà Lan năm 1963. Tuy nhiên các thị trường giao sau hiện đại bắt nguồn từ sự thành lập Hội đồng thương mại Chicago năm 1848.1.1.1 Thị trường giao sau ChicagoTừ năm 1840 Chicago là trung tâm phân phối và vận chuyển của Vùng Trung Tây nước Mỹ - do sản xuất ngũ cốc có tính chất mùa vụ nên nông dân ồ ạt chở ngũ cốc đến Chicago vào cuối mùa Hạ và mùa Thu làm cho kho bãi thành phố không đủ dự trữ, làm cho giá tăng khi mùa vụ đi qua và giá gảm mạnh khi cung tăng. Vì vậy vào năm 1848 một số thương gia đã thành lập Hội đồng thương mại Chicago (CBOT), mục đích của CBOT lúc đó với mong muốn chuẩn hoá số lượng và chất lượng ngũ cốc. Một vài năm sau đó, hợp đồng kỳ hạn đầu tiên được triển khai gọi là hợp đồng đến trước (to arrive contract), cho phép nông dân có thể giao ngũ cốc vào một ngày nào đó trong tương lai nhưng với một giá được xác định trước. Thoả thuận này cho phép người Nông dân bán được ngũ cốc với giá được xác định hôm nay nhưng họ không phải chở đến Chicago.

pdf104 trang | Chia sẻ: Việt Cường | Ngày: 16/04/2025 | Lượt xem: 22 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng sàn giao dịch sau tài chính tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ---- K --- TRƯƠNG THỊ MỸ VÂN XÂY DỰNG SÀN GIAO DỊCH SAU TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - Ngân hàng Mã số:60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS.NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2010 Luận văn thạc sĩ -Trang 1- GVHD: PGS-TS Nguyễn Thị Ngọc Trang Chương I: TỔNG QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG GIAO SAU TÀI CHÍNH 1.1 Sơ lược về sự hình thành và phát triển thị trường giao sau Các sử gia cho rằng các hợp đồng giao sau đã xuất hiện ở Nhật vào năm 1600, các lãnh chúa của Nhật đã sử dụng một thị trường mà họ gọi là cho-ai-mai giao dịch gạo qua sổ sách để quản lý sự bất ổn của giá gạo do ảnh hưởng của thời tiết, chiến tranh. Các thị trường giao sau chính thức cũng đã xuất hiện ở Châu Âu - Hà Lan, trong thập niên 1600. Một trong các hợp đồng sau nổi tiếng là hợp đồng hoa Lulip được phát triển trong suốt thời gian cao điểm của “hội chứng hoa tulip” ở Hà Lan năm 1963. Tuy nhiên các thị trường giao sau hiện đại bắt nguồn từ sự thành lập Hội đồng thương mại Chicago năm 1848. 1.1.1 Thị trường giao sau Chicago Từ năm 1840 Chicago là trung tâm phân phối và vận chuyển của Vùng Trung Tây nước Mỹ - do sản xuất ngũ cốc có tính chất mùa vụ nên nông dân ồ ạt chở ngũ cốc đến Chicago vào cuối mùa Hạ và mùa Thu làm cho kho bãi thành phố không đủ dự trữ, làm cho giá tăng khi mùa vụ đi qua và giá gảm mạnh khi cung tăng. Vì vậy vào năm 1848 một số thương gia đã thành lập Hội đồng thương mại Chicago (CBOT), mục đích của CBOT lúc đó với mong muốn chuẩn hoá số lượng và chất lượng ngũ cốc. Một vài năm sau đó, hợp đồng kỳ hạn đầu tiên được triển khai gọi là hợp đồng đến trước (to arrive contract), cho phép nông dân có thể giao ngũ cốc vào một ngày nào đó trong tương lai nhưng với một giá được xác định trước. Thoả thuận này cho phép người Nông dân bán được ngũ cốc với giá được xác định hôm nay nhưng họ không phải chở đến Chicago. Vào năm 1874 Chicago Product Exchange được thành lập và sau đó trở thành Chicago Butter and Egg Board. Vào năm 1898, tổ chức này được sắp xếp lại thành Sàn giao dịch Chicago (Chicago Mercantile Exchange - CME). Hiện nay Sàn giao dịch Chicago là sàn giao dịch lớn nhất thế giới. HVTH: Trương Thị Mỹ Vân Xây dựng sàn giao dịch giao sau tài chính tại Việt Nam Luận văn thạc sĩ -Trang 2- GVHD: PGS-TS Nguyễn Thị Ngọc Trang 1.1.2 Thị trường giao sau tài chính Từ năm 1800 cho đến năm 1970 tất cả thị trường giao sau đều là giao sau hàng hoá bởi vì sản phẩm được giao dịch chủ yếu là hàng hoá nông nghiệp. Tuy nhiên hợp đồng giao sau tài chính đã hình thành và phát triển một cách nhanh chóng, chiếm ưu thế trong hoạt động giao dịch, chiếm khoảng 75% khối lượng giao dịch phái sinh trên toàn thế giới. Năm 1971 những quốc gia phương tây bắt đầu cho phép tỷ giá các đồng tiền của họ giao động mạnh, cơ chế tỷ giá thả nổi này là cơ sở hình thành thị trường tiền tệ quốc tế vào năm 1972 - Thị trường tiền tệ quốc tế là một chi nhánh của CME. Tháng 6 năm 1972 Thị trường tiền tệ quốc tế của CME khai trương hợp đồng giao sau tiền tệ, với 7 loại tiền tệ: bảng Anh, đô la Canada, Mark Đức, Franc Pháp, Yên Nhật, Peso Mexico và Franc Thuỵ Sĩ. Những sàn giao dịch có giao sau tiền tệ là sàn Euronext (Euronext.liffe), sàn tài chính Tokyo (Tokyo Financial Exchange), và sàn Intercontinental (Intercontinental Exchange). Hợp đồng giao sau lãi suất xuất hiện vào năm 1975, khi CBOT tạo ra các hợp đồng giao sau GNMA (Goverment National Mortage Association). Đây là hợp đồng trên chứng chỉ của hiệp hội thế chấp quốc gia thuộc chính phủ tính theo lãi suất thế chấp. Năm 1977, CBOT bắt đầu giao dịch giao sau trái phiếu kho bạc T-Bond Mỹ - là hợp đồng giao sau thành công nhất trong các thời kỳ mở đầu cho những hợp đồng giao sau lãi suất khác sau này. Năm 1981 CME cho ra đời hợp đồng giao sau Eurodollar, hợp đồng này có nhiều sự cải tiến đó là không yêu cầu giao hàng tài sản cơ sở chỉ thanh toán tiền mặt, đã mở đầu cho những hợp đồng giao sau tài chính sau này. Năm 1982, Kansas City Board of Trade ra đời hợp đồng giao sau chỉ số Value Line, cũng trong năm này CME cho ra đời hợp đồng giao sau chỉ số S&P500 và New York Financial Exchange (ngày nay thuộc New York Board of Trade) ra đời hợp đồng chỉ số NYSE index. Hợp đồng giao sau chỉ số chứng khoán đã thành HVTH: Trương Thị Mỹ Vân Xây dựng sàn giao dịch giao sau tài chính tại Việt Nam Luận văn thạc sĩ -Trang 3- GVHD: PGS-TS Nguyễn Thị Ngọc Trang công vang dội khắp toàn cầu, một số nước có hợp đồng giao sau chỉ số chứng khoán phổ biến là Anh, Pháp, Nhật, Đức, Tây Ban Nha và Hồng Kông. Cải tiến mới nhất trong những hợp đồng giao sau tài chính là hợp đồng giao sau cổ phiếu đơn lẻ được giới thiệu tại Mỹ tháng 11 năm 2002 (Hợp đồng giao sau cổ phiếu công ty thường được gọi là hợp đồng giao sau cổ phiếu đơn lẻ). Đến đây chúng ta tự hỏi tại sao có một số loại hàng hoá được kinh doanh trên sàn giao sau, một số khác thì không được lựa chọn? Tại sao lúa mì, bông, cà phê, bắp, yến mạch, cao su, tơ tằm, cacao, là đối tượng kinh doanh trên sàn giao sau, trong khi chè, than đá, gỗ và có rất nhiều vật liệu khác không phải là đối tượng của sàn giao sau? Lý do không thể nằm trong giá trị của hàng hoá. Vì giá trị tiền tệ của sản xuất thép hàng năm vượt quá xa giá trị của việc nhập khẩu hàng năm cacao, trà được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới hơn là cà phê. Trong việc khảo sát các lý do tại sao một số các hàng hoá lại được giao dịch trên sàn giao sau trong khi có nhiều loại hàng hoá khác thì không, chúng ta phải quan tâm đầu tiên đến tính chất tự nhiên của chính bản thân hàng hoá. • Đơn vị phải đồng nhất. • Hàng hoá phải phân loại và dễ chuẩn hoá. • Cung cầu hàng hoá phải lớn. • Cung phải chảy vào thị trường một cách tự nhiên. • Cung cầu phải không chắc chắn. • Hàng hoá không dễ hư hỏng. Vì vậy, muốn mang các hợp đồng giao sau hàng hóa giao dịch trên sàn trước tiên phải xác định xem hàng hóa mà mình muốn giao dịch có đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên hay không. Đối với giao dịch giao sau tài chính, tài sản cơ sở được chọn giao dịch trên sàn dựa trên sự phát triển thị trường tài chính của nước đó, sản phẩm nào là cần thiết cho các đối tượng tham gia trên thị trường, mục tiêu phát triển của thị trường đó như thế nào. HVTH: Trương Thị Mỹ Vân Xây dựng sàn giao dịch giao sau tài chính tại Việt Nam Luận văn thạc sĩ -Trang 4- GVHD: PGS-TS Nguyễn Thị Ngọc Trang Ngày nay, có những phức tạp trong việc xác định đặc điểm của một vài tài sản trở thành tài sản cơ sở cho một hợp đồng giao sau. Có lúc người ta nghĩ rằng đó phải là tài sản có thể cất trữ được, nhưng giờ lại xuất hiện các hợp đồng giao sau trên tài sản không thể cất trữ được như điện và thời tiết. 1.2 Các hợp đồng giao sau tài chính đang được giao dịch trên sàn và một số sàn giao sau trên thế giới 1.2.1 Hợp đồng giao sau tài chính đang được giao dịch. Những hợp đồng giao sau tài chính phổ biến là chứng khoán nợ như: T-bill, T-notes, T-bonds và Eurodollar (giao dịch trên CME). Những hợp đồng này liên quan đến hợp đồng giao sau lãi suất. Các hợp đồng giao sau ngoại tệ như: Francs Thuỵ Sĩ, Marks Đức, Bảng Anh, Francs Pháp, Pesos Mexi, Dollars Úc, Dollars Canada,Yên Nhật, ECU, Real Brazil. Hợp đồng giao sau chỉ số chứng khoán S&P 500 - dựa trên một danh mục gồm 500 loại cổ phiếu của Mỹ, Major Market index CME – dựa trên một danh mục gồm 20 loại cổ phiếu blue-chip niêm yết trên sàn NYSE, NYSE Composite future– dựa trên một danh mục gồm tất cả cổ phiếu được niêm yết trên sàn NYSE, National OTC, Financial Time, All Ordinaties, Value Line – gồm giá của 1,700 cổ phiếu Mỹ, nó không tương ứng với bất kỳ danh mục cổ phiếu nào vì nó sử dụng số trung bình nhân (geometric averaging), Institutional, Russell, Toronto Stock Exchange, Hang Seng, Barclays. Ngoài ra, quyền chọn trên hợp đồng giao sau được giao dịch tại nhiều sàn khác nhau, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới luôn có sẵn các quyền chọn trên hợp đồng giao sau. Ngày nay, sàn giao dịch phái sinh đang nắm giữ một khối lượng lớn giao dịch trong tổng số khối lượng giao dịch trên thị trường phái sinh. Theo thống kê từ NYSE Euronext tháng 2 năm 2008: LIFFE đã giao dịch 92 triệu hợp đồng giao sau và quyền chọn, trung bình một ngày 4,4 triệu hợp đồng, tăng 31% cùng kỳ năm 2007; trong khi ở OTC số hợp đồng là 13 triệu, tăng 222% so với cùng kỳ năm 2007. Ở Amsterdam, Brussels, Lisbon và Paris mỗi ngày xấp xỉ 2 triệu Euro được giao dịch bởi khách hàng ở khắp nơi trên thế giới. HVTH: Trương Thị Mỹ Vân Xây dựng sàn giao dịch giao sau tài chính tại Việt Nam Luận văn thạc sĩ -Trang 5- GVHD: PGS-TS Nguyễn Thị Ngọc Trang Bảng 1.1: Những hợp đồng giao sau chỉ số chứng khoán nước ngoài ở CME Tên Mô tả Nikkel 225 225 cổ phiếu của Nhật Bản Toronto 35 35 cổ phiếu trên sàn chứng khoán Toronto Financial Times Stock Exchange 100 100 cổ phiếu trên sàn cổ phiếu LonDon Barclays share price 40 cổ phiếu trên sàn NewZealand HangSeng 33 cổ phiếu trên sàn Hồng Kông Osaka 50 cổ phiếu Nhật Bản All Ordinaries share price 307 cổ phiếu Úc 1.2.2 Các sàn giao dịch giao sau trên thế giới Xem phụ lục phần cuối của luận văn. Ở bảng 1.2 liệt kê tất cả các giao dịch giao sau trên các thị trường các khu vực trên thế giới từ năm 2006 đến năm 2008 do NHTTQT công bố. Bảng 1.2: Công bố của ngân hàng thanh toán quốc tế về thông tin trên thị trường giao sau: HVTH: Trương Thị Mỹ Vân Xây dựng sàn giao dịch giao sau tài chính tại Việt Nam Luận văn thạc sĩ -Trang 6- GVHD: PGS-TS Nguyễn Thị Ngọc Trang 1.3 Hợp đồng giao sau và đặc trưng của hợp đồng giao sau 1.3.1 Định nghĩa hợp đồng giao sau Hợp đồng giao sau là hợp đồng giữa hai bên - người mua và người bán để mua hoặc để bán tài sản vào một ngày nào đó trong tương lai với giá đã thỏa thuận ngày hôm nay. Các hợp đồng giao sau được giao dịch trên sàn giao dịch có tổ chức, được gọi là sàn giao dịch giao sau và chịu quá trình thanh toán hàng ngày. Khi ta mua hay bán một hợp đồng giao sau, ta không bị ràng buộc phải thực hiện việc mua bán hàng hoá thực sự, ta có thể thoát khỏi các ràng buộc của hợp đồng bằng 2 cách: • Một là giao nhận hàng thực sự. Điều này không phải là một nguyên tắc, theo thống kê, ít hơn 2% hợp đồng giao sau kết thúc bằng việc giao hàng thực sự. • Hai là thực hiện vị thế bù trừ (Offsetting). Là việc tạo ra một vị thế ngược lại, mua hay bán cùng một số lượng hợp đồng đã mua hay đã bán cùng một thời điểm với ngày hợp đồng giao sau hết hiệu lực. 1.3.2. Đặc trưng của hợp đồng giao sau • Làm giảm rủi ro tín dụng: Ba đặc trưng của hợp đồng giao sau là thanh toán hàng ngày, yêu cầu ký quỹ, trung tâm thanh toán bù trừ, ba đặc trưng này và thị trường tương tác lẫn nhau để làm giảm rủi ro tín dụng. o Thanh toán hàng ngày: Những hợp đồng giao sau điều chỉnh theo thị trường hàng ngày và thanh toán vào cuối của mỗi một ngày giao dịch. Ví dụ ngày 1/7 bên A đồng ý mua của bên B 125,000 Marks Đức giao hàng vào ngày 21/9 giá $0,6100/mark. Cả hai bên đồng ý giá $0,610/mark là giá cho ngày 21/9, vì thế giá trị hiện tại của hợp đồng là Zero. Giả định vào ngày 2/7, giá của đồng mark giao hàng ngày 21/9 tăng lên $0,6150/mark. Sự tăng giá là kết quả của sự thay đổi trong cung cầu đồng mark cả trong thị trường giao ngay và giao sau. Bên A đồng ý mua đồng mark giao hàng ngày 21/9 là $0,6100 trên một đơn vị tài sản nay giá thị trường là $0,6150/mark. Giá trị vị thế của bên A đã tăng lên, hợp đồng của bên A HVTH: Trương Thị Mỹ Vân Xây dựng sàn giao dịch giao sau tài chính tại Việt Nam Luận văn thạc sĩ -Trang 7- GVHD: PGS-TS Nguyễn Thị Ngọc Trang bây giờ có giá trị là 125,000($0,6150-0,6100)=$625. Hợp đồng đã được bên B thanh toán cho bên A, sau khi thanh toán giá trị của hợp đồng trở về Zero. o Yêu cầu ký quỹ: Để mua hay bán một hợp đồng giao sau, người mua phải ký quỹ để đảm bảo thực hiện hợp đồng. Số tiền yêu cầu ký quỹ được xác định bởi những sàn giao dịch cho mỗi loại hợp đồng. Tại thời điểm mà hợp đồng được mua/ bán thì người mua phải ký quỹ ban đầu. Ký quỹ ban đầu khác nhau cho mỗi loại hợp đồng, ví dụ như 0,03% cho T-bill, 5% cho chỉ số S&P 500, yêu cầu ký quỹ ban đầu có khi lên đến 15% cho chỉ số S&P 500, tuy nhiên hầu hết các hợp đồng yêu cầu ký quỹ ít hơn 5%. Mỗi ngày giao dịch, lợi nhuận hay tổn thất được cập nhật vào tài khoản ký quỹ của khách hàng. Nếu số tiền trong tài khoản của khách hàng tăng lên thì được gọi là sự thay đổi khoản ký quỹ, nếu tài khoản ký quỹ của khách hàng giảm xuống, nếu giảm đến một mức nào đó mà thấp hơn khoản ký quỹ duy trì thì họ sẽ được yêu cầu bổ sung khoản ký quỹ hay là đóng vị thế. o Trung tâm thanh toán bù trừ: Ta xem ví dụ sau: Giả định hai bên A và B đồng ý khoản ký quỹ ban đầu cho hợp đồng 125,000 mark Đức là $2,025 và khoản quỹ duy trì là $2,000. Ngày 1/7 hợp đồng giữa hai bên được ký, cả hai bên được yêu cầu ký quỹ ban đầu $2,025. Ngày 2/7, giá mua đồng mark Đức ngày 21/9 tăng từ $0,610 lên $0,6150, tại thời điểm đóng cửa ngày 2/7, $625 sẽ được chuyển từ tài khoản của bên B sang cho bên A. Bây giờ tài khoản ký quỹ của bên A là $2,650, nhưng tài khoản ký quỹ của bên B chỉ còn là $1,400, tài khoản ký quỹ của bên B thấp hơn khoản ký quỹ duy trì, bên B được yêu cầu bổ sung thêm vào tài khoản bằng khoản ký quỹ ban đầu, tức là thêm $625, nếu bên B bổ sung vào tài khoản ký quỹ thì hợp đồng sẽ được tiếp tục. Vào ngày 3/7, giá của hợp đồng của đồng mark Đức ngày 21/9 lại tăng lên, tiền lại được chuyển từ tài khoản của bên B tới tài khoản của bên A, nếu giá tăng đủ lớn bên B lại phải bị yêu cầu bổ sung thêm tiền vào tài khoản ký quỹ. Tuy nhiên nếu bên B không thêm $625 vào tài khoản ký quỹ thì vị thế của bên B sẽ bị đóng và bên A sẽ tìm một đối tác khác để thực hiện hợp đồng. HVTH: Trương Thị Mỹ Vân Xây dựng sàn giao dịch giao sau tài chính tại Việt Nam Luận văn thạc sĩ -Trang 8- GVHD: PGS-TS Nguyễn Thị Ngọc Trang Trung tâm thanh toán bù trừ quản lý những vấn đề giữa hai bên, trung tâm thanh toán bù trừ không trực tiếp tham gia một vị thế nào trong bất kỳ giao dịch, nhưng nó đóng vai trò trung gian giữa các bên. Chức năng của trung tâm thanh toán bù trừ là làm dịch vụ bù trừ và thanh toán cho những thành viên của nó. TTTTBT cũng giải quyết thanh toán tất cả những hợp đồng giao sau về bù trừ, giao hàng thực, thanh toán tiền mặt. Bởi vì trung tâm thanh toán bù trừ và thành viên của nó chịu trách nhiệm đảm bảo chung về những hợp đồng giao sau, bảo vệ bằng cách: ⋅ Thực hiện giám sát và yêu cầu nguồn lực tài chính tối thiểu cho những thành viên thanh toán. ⋅ Quản lý hệ thống ký quỹ và đặc biệt là tính toán yêu cầu khoản ký quỹ ban đầu, thanh toán hay yêu cầu thêm quỹ khi có sự thay đổi khoản ký quỹ hàng ngày và nắm giữ khoản tiền ký quỹ ban đầu của mỗi thành viên. ⋅ Giám sát toàn bộ hệ thống bảo vệ. • Làm tăng tính thanh khoản: Hai đặc tính của hợp đồng giao sau và thị trường giao sau làm tăng tính thanh khoản cho thị trường đó là hợp đồng được chuẩn hoá và được tổ chức trên sàn giao dịch. o Hợp đồng chuẩn hoá: Để tạo tính thanh khoản cho thị trường, hàng hoá/ tài sản được giao dịch trên thị trường phải thuần nhất. Để đạt được tính thuần nhất, những hợp đồng giao sau trong thị trường giao sau phải được tiêu chuẩn hoá. Hợp đồng định rõ một tài sản chuẩn và một ngày giao hàng chuẩn. Ví dụ: trên CME hợp đồng đồng mark Đức có kích cỡ hợp đồng là 125,000 mark với ngày thanh toán là tuần thứ 3, ngày thứ 4 của tháng 3, 6, 9, 12. Ngoài ra, trong hợp đồng giao sau, cơ chế giao hàng cũng chuẩn hoá và giá cả của hợp đồng giao cũng chuẩn hoá mức độ biến động giá tối thiểu gọi là “ticket size”. o Được tổ chức trên sàn: Để mang người mua người bán lại với nhau, thị trường giao sau được tổ chức thành sàn giao dịch, mỗi sàn giao dịch những hợp đồng cụ thể. Mục đích cuối cùng của sàn giao sau là để tối đa hoá giá trị của những thành viên trên sàn và đồng thời tối đa tính thanh khoản trên sàn. HVTH: Trương Thị Mỹ Vân Xây dựng sàn giao dịch giao sau tài chính tại Việt Nam Luận văn thạc sĩ -Trang 9- GVHD: PGS-TS Nguyễn Thị Ngọc Trang 1.4 Các thành phần trên sàn và cơ chế giao dịch của sàn giao sau 1.4.1 Nhà giao dịch trên sàn giao dịch giao sau Nhà giao dịch trên sàn giao dịch giao sau được phân chia theo các tiêu chí khác nhau. 1.4.1.1 Phân loại tổng quát • Công ty hoa hồng giao sau: Thành viên trong công ty gọi là người môi giới hoa hồng, thực hiện giao dịch cho khách hàng của công ty hoa hồng giao sau. Những người môi giới hoa hồng kiếm tiền từ hoa hồng cho mỗi giao dịch. • Thương gia hoa hồng: Là các cá nhân thực hiện kinh doanh cho chính họ, họ giao dịch từ tài khoản cá nhân của mình. Thương gia hoa hồng cố gắng kiếm lời bằng việc mua các hợp đồng với giá cho sẵn và bán chúng với giá cao hơn. 1.4.1.2 Phân loại theo chiến lược giao dịch • Nhà phòng ngừa rủi ro: Là người nắm giữ hàng hoá hoặc có thể là các kế hoạch cá nhân hoặc cam kết mua sau hay là bán hàng hoá. Thực hiện một hợp đồng giao sau đối nghịch để làm giảm rủi ro. • Nhà đầu cơ: Gồm các thương gia hoa hồng, các định chế tài chính trung gian, các cá nhân trên sàn giao dịch, họ là những người kiếm lời bằng việc cố gắng phán đoán chiều hướng của thị trường, họ đóng vai trò quan trọng trên thị trường qua tiến trình cung cấp tính thanh khoản, làm cho quá trình phòng ngừa rủi ro có thể thực hiện được. • Người tìm chênh lệch giá: Là người sử dụng chênh lệch giá mua và giá bán để đầu cơ với rủi ro thấp. Chênh lệch có thể là trong một mặt hàng hoặc giữa các mặt hàng với nhau. Người tìm chênh lệch giá mua một hợp với tháng đáo hạn này và bán với tháng đáo hạn khác, bao gồm vị thế mua một hợp đồng giao sau hàng hoá này và một vị thế bán một hợp đồng giao sau hàng hoá khác, khi biến động vượt ra khởi vùng chênh lệch, các nhà giao dịch thu được chênh lệch giá mua bán giữa các mặt hàng. HVTH: Trương Thị Mỹ Vân Xây dựng sàn giao dịch giao sau tài chính tại Việt Nam
Tài liệu liên quan