1. Lý do chọn đềtài
Bốn thành tốquan trọng trong quá trình dạy học là mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học
và kết quả. Một quá trình dạy học chỉ đạt hiệu quảvà chất lượng khi có một nội dung tốt được gắn
liền với mối quan hệhữu cơcủa 3 thành tốcòn lại. Tiêu chí quan trọng của nội dung là phải đáp
ứng những yêu cầu của mục tiêu, đồng thời là điều kiện tốt cho các phương pháp dạy học được thực
thi theo cách hiệu quảnhất.
Đổi mới phương pháp dạy học là nhu cầu tất yếu của GV, bởi vì đổi mới là sựcải tiến, nâng
cao chất lượng phương pháp dạy học đang sửdụng; là sựbổsung, phối hợp nhiều phương pháp dạy
học đểkhắc phục mặt hạn chếvà phát huy mặt ưu việt của mỗi phương pháp đểgóp phần nâng cao
chất lượng hiệu quảcủa việc dạy học và dạy học bộmôn hóa học.
HS lớp 12 không những cần phải nắm vững kiến thức cơbản của chương trình đểthi tốt
nghiệp mà phải còn có cảnhững kiến thức nâng cao đểthi vào đại học, cao đẳng và phải được trang
bị đầy đủnhững kiến thức hóa học nền tảng làm hành trang vào đời. Việc dạy và học phần kim loại
trong chương trình lớp 12 có ý nghĩa thiết thực đối với HS vì chẳng những cung cấp cho HS những
kiến thức khoa học chuyên ngành mà còn góp phần giáo dục cho HS việc bảo vệmôi trường xanh
và sạch, giáo dục phong cách làm việc chính xác khoa học, tăng cường sựhứng thú học tập bộmôn,
phát triển ởHS năng lực tưduy logic, biện chứng, khái quát, độc lập, tích cực sáng tạo góp phần
“Xây dựng nhà trường thân thiện, học sinh tích cực” theo chủtrương của BộGiáo dục và Đào tạo
giai đoạn 2008- 2013.
Từnhững yêu cầu trên, việc đềxuất một hệ thống bài luyện tập phần kim loại của người GV
tựsoạn và sửdụng nó vào quá trình dạy học một cách có hiệu quảlà việc làm hết sức cần thiết để
hỗtrợquá trình tổchức hoạt động dạy học theo xu hướng đổi mới trong quá trình giáo dục hiện nay.
Đó là lí do chính yếu đểtôi lựa chọn nghiên cứu đềtài “Xây dựng và sửdụng hệthống bài
tập hóa học phần kim loại lớp 12 trung học phổthông chương trình nâng cao”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng hệthống bài tập hóa học lớp 12 chương trình nâng cao với các phương pháp giải
tựluận và phương pháp giải trắc nghiệm nhằm giúp cho HS nắm vững kiến thức khoa học, tiến đến
phát huy năng lực vận dụng kiến thức, khảnăng nhận thức, tưduy hóa học
3. Nhiệm vụnghiên cứu
- Đọc và nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đềtài.
- Điều tra cơbản thực trạng của việc sửdụng bài tập hóa học phần kim loại hiện nay trong
trường THPT Nguyễn Công Trứvà một sốtrường THPT thuộc TP Hồchí Minh.
- Xây dựng hệthống các dạng bài tập phần kim loại trong chương trình hóa học 12 THPT.
- Hệthống các phương pháp giải bài tập đểgiải các bài toán cơbản và nâng cao.
- Thực nghiệm sưphạm để đánh giá hiệu quảcủa việc áp dụng hệthống các bài tập và các
phương pháp giải.
- Đềxuất các biện pháp sửdụng hệthống bài tập hóa học phần kim loại lớp 12 trung học phổ
thông chương trình nâng cao đểgóp phần dạy tốt, học tốt.
4. Đối tượng và khách thểnghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Việc xây dựng và sửdụng hệthống BTHH lớp 12 THPT chương trình
nâng cao.
- Khách thểnghiên cứu: Quá trình dạy học môn hóa học ởtrường THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nội dung: xây dựng hệthống BTHH phần kim loại lớp 12 chương trình nâng cao (các
chương 5, 6, 7).
- Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: lớp 12 THPT trong địa bàn TP Hồchí Minh.
- Giới hạn vềthời gian nghiên cứu: 2009- 2010.
- Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: bài tập tựluận và trắc nghiệm chương trình hóa học lớp 12
chương trình nâng cao.
6. Giảthuyết khoa học
Nếu người GV xây dựng và sửdụng tốt hệthống bài tập hoá học phần kim loại theo hướng
củng cốvà phát triển tưduy thì sẽphát huy tính tích cực, tựgiác, chủ động sáng tạo của HS, gây hứng
thú học tập cho HS, từ đó nâng cao hiệu quảcủa việc dạy và học môn hoá.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: quan điểm tiếp cận hệthống, phép duy vật biện chứng.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận bao gồm: phân tích, tổng hợp, hệthống hóa lí thuyết
vềphân loại và xây dựng hệthống bài tập.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm:
+ Điều tra cơbản đểtìm hiểu thực trạng việc sửdụng bài tập hóa học
trong trường THPT, trình độHS, mức độnắm bắt kiến thức của đối tượng đểthiết kếvà xây dựng
hệthống BTHH cùng với phương pháp dạy học phù hợp.
+ Thực nghiệm sưphạm để đánh giá hiệu quả.
- Phương pháp toán học: xửlí sốliệu thực nghiệm bằng thống kê toán học.
169 trang |
Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 2408 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập hóa học phần kim loại lớp 12 trung học phổ thông chương trình nâng cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
--------------------------
Nguyễn Cửu Phúc
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP
HÓA HỌC PHẦN KIM LOẠI LỚP 12 TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG CHƯƠNG TRÌNH NÂNG CAO
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học hóa học
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ TRỌNG TÍN
Thành phố Hồ chí Minh - 2010
Lời cảm ơn
Em xin gửi lời cám ơn sâu sắc nhất đến thầy Lê Trọng Tín, thầy Trịnh văn Biều, những
người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Xin chân thành cám ơn bạn bè và các đồng nghiệp đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô đã dìu dắt, hướng dẫn em trong suốt
quá trình học cao học và quý thầy cô thuộc phòng Khoa học Công nghệ Sau đại học.
Nguyễn Cửu Phúc
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bốn thành tố quan trọng trong quá trình dạy học là mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học
và kết quả. Một quá trình dạy học chỉ đạt hiệu quả và chất lượng khi có một nội dung tốt được gắn
liền với mối quan hệ hữu cơ của 3 thành tố còn lại. Tiêu chí quan trọng của nội dung là phải đáp
ứng những yêu cầu của mục tiêu, đồng thời là điều kiện tốt cho các phương pháp dạy học được thực
thi theo cách hiệu quả nhất.
Đổi mới phương pháp dạy học là nhu cầu tất yếu của GV, bởi vì đổi mới là sự cải tiến, nâng
cao chất lượng phương pháp dạy học đang sử dụng; là sự bổ sung, phối hợp nhiều phương pháp dạy
học để khắc phục mặt hạn chế và phát huy mặt ưu việt của mỗi phương pháp để góp phần nâng cao
chất lượng hiệu quả của việc dạy học và dạy học bộ môn hóa học.
HS lớp 12 không những cần phải nắm vững kiến thức cơ bản của chương trình để thi tốt
nghiệp mà phải còn có cả những kiến thức nâng cao để thi vào đại học, cao đẳng và phải được trang
bị đầy đủ những kiến thức hóa học nền tảng làm hành trang vào đời. Việc dạy và học phần kim loại
trong chương trình lớp 12 có ý nghĩa thiết thực đối với HS vì chẳng những cung cấp cho HS những
kiến thức khoa học chuyên ngành mà còn góp phần giáo dục cho HS việc bảo vệ môi trường xanh
và sạch, giáo dục phong cách làm việc chính xác khoa học, tăng cường sự hứng thú học tập bộ môn,
phát triển ở HS năng lực tư duy logic, biện chứng, khái quát, độc lập, tích cực sáng tạo góp phần
“Xây dựng nhà trường thân thiện, học sinh tích cực” theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo
giai đoạn 2008- 2013.
Từ những yêu cầu trên, việc đề xuất một hệ thống bài luyện tập phần kim loại của người GV
tự soạn và sử dụng nó vào quá trình dạy học một cách có hiệu quả là việc làm hết sức cần thiết để
hỗ trợ quá trình tổ chức hoạt động dạy học theo xu hướng đổi mới trong quá trình giáo dục hiện nay.
Đó là lí do chính yếu để tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Xây dựng và sử dụng hệ thống bài
tập hóa học phần kim loại lớp 12 trung học phổ thông chương trình nâng cao”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng hệ thống bài tập hóa học lớp 12 chương trình nâng cao với các phương pháp giải
tự luận và phương pháp giải trắc nghiệm nhằm giúp cho HS nắm vững kiến thức khoa học, tiến đến
phát huy năng lực vận dụng kiến thức, khả năng nhận thức, tư duy hóa học…
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đọc và nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Điều tra cơ bản thực trạng của việc sử dụng bài tập hóa học phần kim loại hiện nay trong
trường THPT Nguyễn Công Trứ và một số trường THPT thuộc TP Hồ chí Minh.
- Xây dựng hệ thống các dạng bài tập phần kim loại trong chương trình hóa học 12 THPT.
- Hệ thống các phương pháp giải bài tập để giải các bài toán cơ bản và nâng cao.
- Thực nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả của việc áp dụng hệ thống các bài tập và các
phương pháp giải.
- Đề xuất các biện pháp sử dụng hệ thống bài tập hóa học phần kim loại lớp 12 trung học phổ
thông chương trình nâng cao để góp phần dạy tốt, học tốt.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Việc xây dựng và sử dụng hệ thống BTHH lớp 12 THPT chương trình
nâng cao.
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn hóa học ở trường THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nội dung: xây dựng hệ thống BTHH phần kim loại lớp 12 chương trình nâng cao (các
chương 5, 6, 7).
- Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: lớp 12 THPT trong địa bàn TP Hồ chí Minh.
- Giới hạn về thời gian nghiên cứu: 2009- 2010.
- Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: bài tập tự luận và trắc nghiệm chương trình hóa học lớp 12
chương trình nâng cao.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu người GV xây dựng và sử dụng tốt hệ thống bài tập hoá học phần kim loại theo hướng
củng cố và phát triển tư duy thì sẽ phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của HS, gây hứng
thú học tập cho HS, từ đó nâng cao hiệu quả của việc dạy và học môn hoá.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: quan điểm tiếp cận hệ thống, phép duy vật biện chứng.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận bao gồm: phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa lí thuyết
về phân loại và xây dựng hệ thống bài tập.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm:
+ Điều tra cơ bản để tìm hiểu thực trạng việc sử dụng bài tập hóa học
trong trường THPT, trình độ HS, mức độ nắm bắt kiến thức của đối tượng để thiết kế và xây dựng
hệ thống BTHH cùng với phương pháp dạy học phù hợp.
+ Thực nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả.
- Phương pháp toán học: xử lí số liệu thực nghiệm bằng thống kê toán học.
8. Đóng góp mới của đề tài
- Xây dựng, lựa chọn được hệ thống bài tập hóa học (tự luận và trắc nghiệm khách quan)
phần kim loại lớp 12 THPT theo chương trình nâng cao (áp dụng từ năm học 2008- 2009).
- Kết hợp các dạng bài tập có hình vẽ, đồ thị, thực nghiệm, môi trường nhằm làm phong phú
thêm hệ thống bài tập thường có và góp phần giáo dục bảo vệ môi trường xanh và sạch.
- Bước đầu nghiên cứu phương pháp sử dụng có hiệu quả hệ thống bài tập đã đề xuất nhằm
phục vụ việc dạy và học hóa học lớp 12 ở trường THPT.
- Minh chứng được luận điểm: “BTHH được xem như là một phương pháp dạy học cơ bản”.
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Việc nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập hóa học phần vô cơ lớp 12 phổ thông trung học
từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu. Chúng tôi xin nêu một vài nghiên cứu có liên
quan đến bài tập hóa học như:
- Nguyễn Thị Khánh (1998), Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra kiến thức
hóa học 12 PTTH, luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
- Hoàng Thị Kiều Dung (1999), Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra kiến
thức HS lớp 11 và 12 PTTH, luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
- Phạm Thị Tuyết Mai (2003), Sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan và tự luận trong
kiểm tra, đánh gía kiến thức hóa học của HS lớp 12 trường PTTH, luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thanh Thủy (2006), Phát triển năng lực nhận thức và tư duy cho HS trung học
phổ thông thông qua bài tập hóa học vô cơ, luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
- Nguyễn Thị Ngọc Xuân (2008), Thiết kế website về phương pháp giải nhanh các bài tập
trắc nghiệm khách quan Hóa học Vô cơ ở trường trung học phổ thông, luận văn thạc sĩ, ĐHSP TP
Hồ chí Minh.
- Nguyễn Thị Tuyết An (2009): Xây dựng bộ đề phần hóa vô cơ giúp HS THPT tăng cường
khả năng tự kiểm tra, đánh giá, luận văn thạc sĩ, ĐHSP TP Hồ chí Minh.
- Nguyễn Thị Ngọc Hải (2009), Xây dựng hệ trống câu hỏi trắc nghiệm khách quan chất
lượng cao dùng để dạy học hóa học lớp 12 nâng cao trường THPT, luận văn thạc sĩ, ĐHSP TP Hồ
chí Minh.
- Phạm Thùy Linh (2009), Thiết kế e-book hỗ trợ khả năng tự học của HS lớp 12 chương
"Đại cương về kim loại”chương trình cơ bản, luận văn thạc sĩ, ĐHSP TP Hồ chí Minh.
- Nguyễn Ngọc Vân Linh (2009), Biên soạn hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan phần
"Các nguyên tố kim loại" lớp 12 THPT, luận văn thạc sĩ, ĐHSP TP Hồ chí Minh.
- Lê Thị Thanh Thủy (2009), Xây dựng hệ trống bài tập trắc nghiệm khách quan và thiết kế
trên máy vi tính để nâng cao chất lượng giảng dạy phần hóa vô cơ lớp 12 ban cơ bản, luận văn thạc
sĩ, ĐHSP TP Hồ chí Minh.
- Tống Thanh Tùng (2009), Thiết kế e-book hóa học lớp 12 phần crôm, sắt, đồng nhằm hỗ
trợ HS tự học, luận văn thạc sĩ, ĐHSP TP Hồ chí Minh.
Các đề tài về xây dựng và sử dụng hệ thống BTHH tuy đã có nhiều người viết nhưng viết cụ
thể cho lớp 12 THPT chương trình nâng cao mới ban hành năm 2008- 2009, cho đối tượng HS
trường THPT Nguyễn Công Trứ và một số trường khác thuộc địa bàn TP Hồ chí Minh thì chưa có
người làm.
1.2. Những đổi mới trong việc dạy và học hóa học trong nhà trường phổ thông
1.2.1. Đổi mới giáo dục trên thế giới
Chúng ta đang sống trong một thế giới thay đổi thường xuyên, và tốc độ thay đổi ngày một
tăng cao do những tiến bộ và tác động của công nghệ đem lại.
Xã hội hiện đại đòi hỏi các công dân phải có những tri thức tối thiểu về đọc, viết, làm tính
đơn giản, quyền công dân và giá trị đạo đức để tham gia vào hoạt động kinh tế xã hội. Các yếu tố
khoa học được đưa vào các giáo trình dạy học. Xu hướng dạy các tri thức hàn lâm xuất phát từ sự
phát triển của khoa học cùng với việc áp đặt một số hiểu biết và tri thức nhất định lên người học đã
dần trở nên chiếm ưu thế. Do đó, hệ thống giáo dục lấy thầy là người đại diện cho việc cung cấp tri
thức, còn HS là người chấp nhận thụ động khối lượng tri thức do thầy chuyển giao đã xảy ra trong
một thời gian dài.
Giáo dục hiện đại đang đứng trước yêu cầu và thách thức lớn lao của xã hội hiện đại. Mô
hình trường học theo kiểu xưởng máy của thế kỉ trước không còn phù hợp nữa. Việc học tập của
HS không thể là thụ động tiếp thu bài giảng của GV mà phải là sự tham gia tích cực vào các hoạt
động tập thế, theo dự án, để có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất và xã hội sau này.
Hai khái niệm về tri thức đã được John Dewey chỉ ra là việc nắm vững văn hoá và sự tham
dự vào các quá trình hoạt động thực tế, như vẫn được diễn tả bởi từ “làm”. Xã hội quan niệm HS
tốt nghiệp là người có thể nhận diện và giải quyết vấn đề và có đóng góp cho xã hội trong cuộc
đời họ (những người thể hiện phẩm chất của “chuyên gia thích ứng”). Việc đạt tới tầm nhìn này đòi
hỏi họ phải tư duy lại điều đã được dạy, cách các GV giảng dạy, cách đánh giá và tự đánh giá, cách
phấn đấu thực hiện tốt công việc [51].
Vậy chuyên gia thích ứng là gì ? Chuyên gia thích ứng là người có khả năng tiếp cận tới
những tình huống mới một cách linh hoạt và biết tự học cả đời. Họ không những chỉ dùng điều
mình đã học mà còn tự nhận thức được chính việc học tập của mình bằng cách thường xuyên xem
xét mức độ chuyên gia của mình và cố gắng vượt ra ngoài các mức độ đó, cố gắng làm cho mọi thứ
tốt hơn.
Quan điểm dạy học truyền thống xoay quanh vai trò chủ đạo của GV trong việc tổ chức học
tập cho HS được thể hiện trong giáo án của GV. Giáo án của GV chính là bản kế hoạch trung tâm
cho các hoạt động dạy học diễn ra. Do đó dần dần dạy theo giáo án trở thành một yêu cầu bắt buộc
với các GV.
Tuy nhiên, bản chất vấn đề dạy học không phải chỉ là hoàn thành những kế hoạch được vạch
sẵn mà không tính tới những biến đổi của môi trường và người học. TS Geneva Gay, đại học
Washington quan niệm “Việc dạy hiệu quả là hành động sáng tạo”. Điều này có nghĩa là bên
cạnh tính hiệu quả của dạy học, vốn chỉ là một phần, cần phải quan tâm và coi việc sáng tạo trong
dạy học mới đem lại hiệu quả chính. Tại sao phải dạy có sáng tạo? GV phải thích ứng sáng tạo theo
nhu cầu của HS để có tính hiệu quả, tức là đào tạo ra HS đáp ứng được cho nhu cầu xã hội. GV
phải liên tục thích ứng với thế giới đang thay đổi của chúng ta để đưa những cái mới vào giảng dạy
cho HS. Điều này cần sự sáng tạo. GV phải là những nhà chuyên môn, không đơn giản tuân theo
“giáo án” làm sẵn. Vai trò của họ là tác nhân đổi mới trong các ràng buộc sẵn có. Do đó bản thân
GV cũng phải là các chuyên gia thích ứng. Họ phải là những người nhanh chóng và nhậy bén nhận
ra những đòi hỏi mới từ HS để từ đó thay đổi, biến đổi các giáo án của mình đáp ứng cho các nhu
cầu đổi mới đó và đóng góp thêm cho sự phát triển của các giáo án tốt.
1.2.2. Đổi mới giáo dục trong nước ta
Trong xu thế đổi mới mạnh mẽ trên thế giới về vấn đề giáo dục thì Việt Nam cũng không
ngoại lệ. Để có được sự đổi mới về giáo dục thì trước hết là đổi mới về phương pháp dạy và học.
Theo các chuyên gia giáo dục Việt Nam thì những xu hướng đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và phương pháp dạy học hóa học nói riêng ở nước ta cụ thể là [37]:
- Hướng 1: Tăng cường tính tích cực, tìm tòi sáng tạo ở người học, tiềm năng trí tuệ nói riêng
và nhân cách nói chung thích ứng năng động với thực tiễn luôn đổi mới.
- Hướng 2: Tăng cường năng lực vận dụng trí thức đã học vào cuộc sống, sản xuất luôn biến
đổi.
- Hướng 3: Chuyển dần trọng tâm của phương pháp dạy học từ tính chất thông báo, tái hiện
đại trà chung cho cả lớp sang tính chất phân hóa- cá thể hóa cao độ, tiến lên theo nhịp độ cá nhân.
- Hướng 4: Liên kết nhiều phương pháp dạy học riêng lẻ thành tổ hợp phương pháp dạy học
phức hợp.
- Hướng 5: Liên kết phương pháp dạy học với các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại
(phương tiện nghe nhìn, máy vi tính…) tạo ra tổ hợp phương pháp dạy học có dùng kỹ thuật.
- Hướng 6: Chuyển hóa phương pháp khoa học thành phương pháp dạy học đặc thù của môn
học.
- Hướng 7: Đa dạng hóa các phương pháp dạy học phù hợp với các cấp học, bậc học, các loại
hình trường và các môn học.
Mục đích của đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy học
truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực, nhằm giúp HS phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác,
khả năng thích ứng trong học tập và trong thực tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập.
Làm cho “học” là quá trình kiến tạo; HS tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lý
thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. Làm cho “dạy” là quá trình tổ chức hoạt
động nhận thức cho HS, dạy HS cách tìm ra chân lý. Chú trọng hình thành năng lực hành động; tính
sáng tạo, năng động, tính tự lực và trách nhiệm; năng lực hợp tác; năng lực giải quyết các vấn đề
phức hợp, khả năng tự học, dạy phương pháp và kỹ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học để
đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai. Những điều đã học cần thiết, bổ ích cho
bản thân HS và cho sự phát triển xã hội.
1.2.2.1. Tính tích cực trong học tập
Theo từ điển tiếng Việt: “Tích cực là tỏ ra chủ động, có những hoạt động nhằm tạo ra sự biến
đổi theo chiều hướng phát triển” [48].
Tính tính cực của con người được biểu hiện trong hoạt động, đặc biệt trong các hoạt động tập
thể. Học tập là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi đi học. Tính tích cực học tập là tính tích cực nhận
thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri
thức.
Tính tích cực học tập sản sinh ra nét tư duy độc lập sáng tạo và được biểu hiện ở những dấu
hiệu sau:
- Hăng hái trả lời các câu hỏi của GV, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến
của mình trước vấn đề nêu ra;
- Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vần đề chưa đủ rõ;
- Chủ động vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức vấn đề mới;
- Tập trung chú ý vào vấn đề đang học;
- Kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn.
Các nhà lí luận đã đánh giá mức độ tính tích cực học tập theo các cấp độ từ thấp đến cao như
sau:
- Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn.
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau về một vấn
đề...
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
1.2.2.2. Phương pháp dạy học tích cực [14]
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, để chỉ những phương pháp theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập sáng tạo của người học. Phương pháp dạy học tích
cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động (trái với không hoạt động, thụ động), nghĩa là
hướng vào phát huy tính tích cực, chủ động của người học rèn luyện cho họ có năng lực hành động,
khả năng thích ứng cao chứ không chỉ hướng vào việc phát huy tính tích cực của người dạy.
Phương pháp dạy học tích cực hàm chứa cả phương pháp dạy và phương pháp học.
Có năm dấu hiệu đặc trưng cơ bản của phương pháp tích cực để phân biệt với các phương
pháp thụ động, đó là:
- Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của HS.
- Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, đây cũng là mục tiêu dạy học.
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
- Có sự phối hợp sử dụng rộng rãi các phương tiện trực quan, nhất là những phương tiện kĩ
thuật hiện đại (máy vi tính, phần mềm dạy học,...).
- Kết hợp sự đánh giá của thầy và sự đánh giá của trò.
Việc đổi mới phương pháp dạy học hoá học theo hướng dạy học tích cực tập trung vào hai
hướng sau [37]:
- Phương pháp dạy học hoá học phải đặt người học vào đúng vị trí chủ thể của hoạt động
nhận thức, làm cho họ hoạt động trong giờ học, rèn luyện cho họ tập giải quyết các vấn đề khoa
học từ dễ đến khó, có như vậy họ mới có điều kiện tốt để tiếp thu và vận dụng kiến thức một cách
chủ động, sáng tạo.
- Phương pháp nhận thức khoa học hoá học là thực nghiệm, cho nên phương pháp dạy học
hoá học phải tăng cường thí nghiệm thực hành và sử dụng thật tốt các thiết bị dạy học giúp mô
hình hoá, giải thích chứng minh các quá trình hoá học.
1.2.2.3. Mô hình của phương pháp dạy học tích cực [16], [37]
Các nhà khoa học đã nghiên cứu, thử nghiệm nhiều mô hình. Sau đây là hai mô hình được
bàn luận nhiều nhất.
a. Dạy học hướng vào người học (dạy học lấy HS làm trung tâm)
Bản chất của việc dạy học hướng vào người học là:
- Chuẩn bị cho HS thích ứng với đời sống xã hội, tôn trọng nhu cầu, hứng thú, khả năng, lợi
ích của HS.
- Chú trọng các kỹ năng thực hành vận dụng kiến thức, năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn,
giúp HS dễ dàng hòa nhập cuộc sống và góp phần phát triển cộng đồng.
- Coi trọng việc rèn luyện cho HS phương pháp tự học, phát huy sự suy nghĩ tìm tòi độc lập
hoặc theo nhóm nhỏ, thông qua thảo luận, thí nghiệm thực hành, thâm nhập thực tế. Dựa vào vốn
hiểu biết, kinh nghiệm của từng cá nhân và tập thể của HS để xây dựng bài học. Giáo án được thiết
kế nhiều phương án theo kiểu phân nhánh được GV linh hoạt điều chỉnh theo diễn biến của tiết học
và theo sự phát triển của từng cá nhân.
- Hình thức tổ chức có thể thay đổi linh hoạt cho phù hợp với hoạt động học tập trong tiết
học, thậm chí trong từng phần của tiết học.
- HS được tham gia tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau về mức độ đạt được các mục tiêu của
từng giai đoạn học tập, chú trọng mặt chưa đạt được so với mục tiêu. GV hướng dẫn cho HS phát
triển năng lực tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học, khuyến khích cách học thông minh, sáng tạo,
biết giải quyết những vấn đề nảy sinh trong các tình huống thực tế.
Nhận xét
Đây là một quan điểm, một tư tưởng, nhưng đây không phải là một phương pháp dạy học cụ
thể.
Lý thuyết “HS làm trung tâm” là một tư tưởng tiến bộ, lành mạnh nhằm giải phóng năng
lực sáng tạo của HS. Nhìn theo quan điểm lịch sử thì đây là sự trả lại vị trí ban đầu vốn có của
người học: người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy, vừa là chủ thể của hoạt động học.
Cần vận dụng mặt tiến bộ, tích cực của lí thuyết này nhưng không nên đi theo hướng cực
đoan là tuyệt đối hóa hứng thú, nhu cầu, hành vi biệt lập của cá nhân; đó là điều hoàn toàn xa lạ đối
với bản chất nền văn hoá giáo dục hướng về cộng đồng, về số đông người lao động của nước ta.
b. Dạy học theo hướng hoạt động hóa người học [37]
Bản chất của dạy h