Ludwig Josef Johann Wittgenstein (1889 -1951) -"Cha tinh thần" của triết học phân tích

L.Wittgenstein -nhà triết học người Áo, sau đổi sang quốc tịch Anh, là một trong những triết gia đã để lại dấu ấn riêng trong thế kỷ XX, người đặt nền móng cho “bước ngoặt ngôn ngữ” trong lịch sử triết học phương Tây hiện đại và giữ vai trò đặc biệt trong triết học phân tíchvà triết học ngôn ngữ. Mỗi chuyển biến trong tư tưởng của ông đều điển hình cho bước chuyển của chính các trào lưu triết học này

pdf19 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ludwig Josef Johann Wittgenstein (1889 -1951) -"Cha tinh thần" của triết học phân tích, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH NHÂN TRIẾT HỌC Ludwig Josef Johann Wittgenstein (1889 - 1951) - "Cha tinh thần" của triết học phân tích L.Wittgenstein - nhà triết học người Áo, sau đổi sang quốc tịch Anh, là một trong những triết gia đã để lại dấu ấn riêng trong thế kỷ XX, người đặt nền móng cho “bước ngoặt ngôn ngữ” trong lịch sử triết học phương Tây hiện đại và giữ vai trò đặc biệt trong triết học phân tích và triết học ngôn ngữ. Mỗi chuyển biến trong tư tưởng của ông đều điển hình cho bước chuyển của chính các trào lưu triết học này. Điều đó làm cho Wittgenstein trở thành tấm gương độc nhất vô nhị trong việc tự vượt bỏ và phát triển tư tưởng của mình; và cũng lý giải – một phần – cho sức thu hút của ông đối với các nhà triết học trong trào lưu phân tích nói riêng, các nhà nghiên cứu hậu sinh nói chung. L.Wittgenstein sinh ngày 26 tháng 4 năm 1889, tại Vienna, trong một gia đình thượng lưu người Áo – cha là người đứng đầu ngành công nghiệp luyện thép của đế quốc Áo - Hung, mẹ là một nghệ sĩ dương cầm có tiếng. Năm 1906, Wittgenstein bắt đầu học ngành kỹ sư cơ khí ở Berlin; năm 1908, đến Manchester tiếp tục theo học kỹ sư chuyên ngành hàng không. Tại đây, “ông bắt đầu chú ý đến những nguyên tắc triết học của toán học mà ngành học của ông phải dựa vào. Một người bạn cho ông mượn cuốn Những nguyên lý của toán học của B.Russell viết năm 1903 và tác phẩm này đã đưa ông vào sự nghiệp nghiên cứu triết học”(1). Từ những mô tả trong cuốn sách về những tư tưởng triết học và lôgíc học của Gottlob Frege, Wittgenstein đã tìm đến Frege ở Jena (Đức). Theo lời khuyên của Frege, ông quay lại Anh, đến Đại học Cambridge để theo học Russell. Rất nhanh chóng, Russell – lúc đó đã là nhà triết học nổi tiếng – nhận ra và hết sức đề cao khả năng của Wittgenstein trong lĩnh vực triết học: “Tôi chắc chắn sẽ khuyến khích anh ta. Có lẽ anh ta sẽ làm nên những điều vĩ đại… Tôi rất mến anh ta và cảm thấy anh ta sẽ giải quyết được những vấn đề mà tôi đã quá già để giải quyết”(2). Trên thực tế, Wittgenstein không theo học triết học một cách có hệ thống. Thậm chí, ông còn cố gắng để không chịu tác động của những nhà triết học đi trước (tác phẩm lớn nhất của ông ở thời kỳ đầu - Chuyên luận lôgíc – triết học (Tractatus Logico-Philosophicus) đã thể hiện rất rõ điều ấy). Nhưng người ta vẫn có thể nói đến những tác gia - trong triết học và các lĩnh vực nhân văn khác - mà Wittgenstein đã tiếp nhận ảnh hưởng: Frege, Russell, Schopenhauer, Kierkegaard, Augustine, Dostoevsky, Tolstoi, Goethe, v.v.. Năm 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Wittgenstein gia nhập quân đội Áo – Hung. Năm 1918, ông bị quân Ý bắt làm tù binh. Trước đó, ông đã hoàn thành Tractatus và đưa đến nhà xuất bản nhưng bị từ chối. Trong thời gian bị giam, ông gửi tác phẩm cho Russell. Russell nhận thấy đây là một tác phẩm triết học đặc biệt quan trọng và dưới sự giúp đỡ của ông, Tractatus đã được xuất bản vào năm 1921, sau đó bản dịch tiếng Anh cũng được xuất bản vào năm 1922, với lời giới thiệu của Russell. Tractatus nhanh chóng trở nên nổi tiếng và cùng với nó là tên tuổi của tác giả. Được coi là tác phẩm đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng của triết học phân tích, Tractatus đã nêu ra và giải quyết hàng loạt vấn đề triết học quan trọng – vấn đề quan hệ giữa thế gian và tư tưởng, vấn đề ngôn ngữ, vấn đề bản chất của chính triết học, v.v.. Tác phẩm này của Wittgenstein được nhóm Vienna (với các nhà triết học M.Schlick, G.Bergmann, R.Carnap, K.Godel, F.Waismann…) coi như “kinh thánh” và bản thân ông thì được xem như một trong những triết gia lỗi lạc đương thời. Sau Tractatus, Wittgenstein từ bỏ triết học, vì tự cho rằng đã giải quyết triệt để tất cả các “vấn nạn triết học” trong tác phẩm của mình. Trong khoảng thời gian từ 1919 (khi được trả tự do) đến 1929, ông không quay lại Cambridge mà về nước Áo, làm nhiều nghề khác nhau: giáo viên tiểu học, người làm vườn. Sau đó, ông tham gia thiết kế nhà cho người chị gái và trong thời gian ấy đã có những tác động khiến ông thay đổi: ông gặp gỡ với những nhà triết học thuộc nhóm Vienna. Khi tham gia tranh luận với họ, hứng thú triết học dần quay trở lại với Wittgenstein, đồng thời với việc ông cảm thấy nhiều quan điểm của mình trước đây chưa đầy đủ và việc giải quyết các “vấn nạn triết học” là chưa triệt để. Năm 1929, Wittgenstein trở lại Cambridge với ý định thực hiện tiếp tục công việc mà Tractatus chưa hoàn thành. Nhưng, rất nhanh sau đó, ông nhận thấy không phải những giải pháp của Tractatus chưa triệt để, mà bản thân nó là sai lầm. “Khi bắt đầu suy nghĩ lại về những vấn đề của Tractatus, Wittgenstein nhận ra mình buộc phải đánh đổ càng nhiều càng tốt những giả định triết học của nó. Chỉ trong vòng vài tháng [sau khi trở lại Cambridge], cái cấu trúc công phu của Tractatus đã sụp đổ như toà nhà bằng giấy. Nhưng sự sụp đổ đó không làm cho Wittgenstein rơi vào bi quan; ngược lại, dường như nó lại mở tung cửa cho những tư tưởng hoàn toàn mới. Có lẽ, không có giai đoạn nào trong đời Wittgenstein mà những ý tưởng đến với ông nhanh chóng và dồi dào đến thế. Khi từ bỏ những giả định trong Tractatus, ông thể nghiệm hàng loạt những đường lối triết học khác nhau”(3). Sau những thể nghiệm đó, Wittgenstein đi đến những quan niệm được coi là đánh dấu bước ngoặt cho triết học của ông nói riêng, trào lưu triết học phân tích nói chung. Những quan điểm ấy được thể hiện tập trung nhất trong Những nghiên cứu triết học mà do nhiều nguyên nhân khác nhau, đã chỉ được xuất bản sau khi ông qua đời. Trên thực tế, Tractatus dường như là tác phẩm duy nhất được xuất bản khi Wittgenstein còn sống. Nhưng không phải qua những tác phẩm mà tiếng tăm của Wittgenstein được định hình: trở lại Cambridge, từ 1930 đến 1936, ông hướng dẫn các buổi seminar của sinh viên; 1939, ông được cử giữ chức giáo sư đại học. Ông hoạt động ở cương vị đó đến 1947, với một vài gián đoạn do Chiến tranh thế giới thứ II (1941 – 1945). Sau 1947, ông từ chức giáo sư và sống ở nhiều nơi – Ai len, Mỹ. Năm 1951, ông quay lại Cambridge và qua đời ở đó (ngày 29-4-1951). Trong suốt thời gian này, Wittgenstein đã nổi tiếng với tư cách nhà triết học hàng đầu của trào lưu phân tích. Các bài giảng và những cuộc tiếp xúc với các triết gia trong giới đại học đã đưa ảnh hưởng của Wittgenstein lan rộng mà không có các tác phẩm trực tiếp của ông. Chỉ đến năm 1953, Những nghiên cứu triết học mới được xuất bản; sau đó hàng loạt các tác phẩm khác trong di sản tư tưởng đồ sộ của Wittgenstein đã được công bố rộng rãi, góp phần khẳng định tầm quan trọng của ông trong lịch sử triết học phương Tây hiện đại. Các tác phẩm chính của Wittgenstein: ngoài Tractatus (1921) và Những nghiên cứu triết học (1953), cho đến nay, đã có những tác phẩm quan trọng sau đây được xuất bản: Những nhận xét về nền tảng của toán học (1956); Sách xanh, Sách nâu (1958); Nhật ký 1914 – 1916 (1961); Những nhận xét triết học (1964); Bài giảng và đàm luận về mỹ học, tâm lý học và niềm tin tôn giáo (1966); Những nhận xét về nền tảng của toán học (1967); Về tính xác tín (1969); Ngữ pháp triết học (1969); Prototractatus (tiền Tractatus) (1971); Những nhận xét về màu sắc (1977); Những nhận xét về triết học của tâm lý học (1980). Những tư tưởng cơ bản của Wittgenstein Quá trình phát triển tư tưởng của Wittgenstein thường được chia thành 2 thời kỳ, thời sơ kỳ với Chuyên luận lôgíc – triết học (Tractatus) và thời hậu kỳ mà tiêu biểu là Những nghiên cứu triết học. 1. Wittgenstein sơ kỳ và Tractatus Tractatus là một tác phẩm triết học rất ngắn và có hình thức khác thường. Nó bao gồm các lời phát biểu (các mệnh đề) được đánh số thứ tự theo một trật tự nghiêm ngặt. Hình thức này đã làm cho tác phẩm, nhìn một cách tổng thể, có một cấu trúc rất chặt chẽ. Nếu có thể ví như cái cây, thì Tractatus bao gồm 7 nhánh lớn – những mệnh đề chính, được đánh số từ 1 đến 7; trên mỗi nhánh là những nhánh con – những mệnh đề bổ sung cho các mệnh đề chính, được đánh số theo thứ tự 1.2, 1.3, 2.21, 2.211, v.v.. Chỉ riêng mệnh đề thứ 7 không có mệnh đề bổ sung. 7 mệnh đề cơ bản của Tractatus như sau(4): 1. Thế giới là toàn bộ những gì là hoàn cảnh. 2. Cái là hoàn cảnh - sự kiện – là sự tồn tại của những trạng huống sự việc. 3. Một bức tranh lôgíc về những sự kiện là một tư tưởng. 4. Một tư tưởng là một mệnh đề với ý nghĩa. 5. Một mệnh đề là một hàm bảo thực của các mệnh đề sơ đẳng (Một mệnh đề sơ đẳng là hàm bảo thực của chính nó). 6. Hình thức chung của một hàm bảo thực là [p, ợ, N(ợ)]. Đó là hình thức chung của một mệnh đề. 7. Cái mà ta không nói lên được thì nên đưa nó vào im lặng. Luận thuyết trung tâm trong tác phẩm là “luận thuyết mô phỏng về ý nghĩa”, thông qua đó Wittgenstein trình bày quan điểm về mối quan hệ giữa thế giới (thực tại), tư tưởng và ngôn ngữ. Diễn giải cụ thể về nội dung của luận thuyết này trong tác phẩm, chúng tôi xin trích ra đây những phân tích của Anat Biletzki và Anat Matar viết trong mục từ “Wittgenstein” của Bách khoa triết học Stanford online: “Bắt đầu với một siêu hình học bề ngoài, Wittgenstein coi thế giới như là bao gồm những sự kiện (mệnh đề 1), khác với quan niệm nguyên tử luận và mang tính truyền thống, coi thế giới như là được tạo thành bởi những đối tượng. Sự kiện là những trạng huống sự việc hiện thời (2) và trạng huống sự việc, đến lượt mình, lại là sự kết hợp của những đối tượng (đơn thể). Những đơn thể có thể phù hợp với nhau theo nhiều cách xác định. Chúng có thể có rất nhiều thuộc tính và nhiều mối quan hệ khác nhau với nhau. Nghĩa là, những thuộc tính nội tại của một đơn thể quyết định tính khả thể của sự phối hợp của đơn thể đó với những đơn thể khác; đó là hình thức lôgíc của nó. Vì vậy, các trạng huống sự việc, bao gồm các đơn thể trong sự phối hợp, có tính phức tạp cố hữu. Những trạng huống của sự việc đang tồn tại có thể đã tồn tại theo một cách khác. Điều đó có nghĩa rằng, những trạng huống sự việc hoặc là đang hiện thế (đang tồn tại) hoặc là có tính khả thể. Toàn bộ những trạng huống sự việc - hiện thế và khả thể - cấu thành toàn bộ thực tại. Như vậy, thế giới chính là những trạng huống sự việc đang tồn tại. Sự chuyển dịch vào tư tưởng, và sau đó vào ngôn ngữ, được thể hiện qua ý tưởng nổi tiếng của Wittgenstein rằng, các tư tưởng và các mệnh đề là những bức tranh – “bức tranh là một mẫu hình của thực tại” (Tractatus, 2.12). Những bức tranh được tạo thành bởi các yếu tố (element) cấu thành nên bức tranh. Mỗi yếu tố đại diện cho một đơn thể và sự kết hợp của những đơn thể trong bức tranh đại diện cho sự phối hợp của các đơn thể trong một trạng huống sự việc. Cấu trúc lôgíc của bức tranh, dù trong tư tưởng hay trong ngôn ngữ, là đẳng cấu với cấu trúc lôgíc của trạng huống sự việc là cái mà nó mô phỏng. Điểm tinh tế là sự sáng suốt của Wittgenstein khi cho rằng, tính khả thể của cấu trúc này được chia sẻ bởi bức tranh (tư tưởng, mệnh đề) và trạng huống sự việc là hình thức mang tính hình ảnh. “Bởi vậy mà bức tranh dính liền với thực tại; nó vươn thẳng tới thực tại” (Tractatus 2.1511). Điều này dẫn tới một cách hiểu về cái mà bức tranh có thể mô phỏng; nhưng cũng dẫn tới cách hiểu về cái mà bức tranh không thể mô phỏng – hình thức mang tính hình ảnh của chính nó. Khi “bức tranh lôgíc về sự kiện chính là tư tưởng” (3), trong sự dịch chuyển vào ngôn ngữ, Wittgenstein tiếp tục nghiên cứu những tính khả thể của ý nghĩa đối với những mệnh đề (4). Sự phân tích lôgíc, trong tinh thần [các tác phẩm] của Frege và Russell, đã dẫn dắt tác phẩm, với việc Wittgenstein sử dụng những phép toán lôgíc để thực hiện việc xây dựng hệ thống của mình. Khi giải thích rằng “chỉ có mệnh đề là có nghĩa; chỉ có trong ngữ cảnh của một mệnh đề thì tên gọi mới có ý nghĩa” (Tractatus 3.3), ông đã cung cấp cho người đọc hai điều kiện để ngôn ngữ có thể có nghĩa. Thứ nhất, cấu trúc của mệnh đề phải y theo những hạn chế của hình thức lôgíc; và thứ hai, những yếu tố của mệnh đề phải có chỉ xưng (bedeutung). Những điều kiện này có hàm ý sâu xa. Sự phân tích buộc phải đẩy đến cùng với một tên gọi vốn là một biểu tượng nguyên thuỷ và nó được diễn tả bởi tính cách vô cùng trừu tượng của cả tên gọi lẫn đơn thể (đơn giản). Hơn nữa, bản thân lôgíc đem đến cho chúng ta cấu trúc và những giới hạn của cái ít nhất có thể nói lên. Lôgíc dựa trên quan điểm rằng mọi mệnh đề đều hoặc đúng hoặc sai. Tính hai cực này của những mệnh đề cho phép cấu tạo những mệnh đề phức tạp hơn từ những mệnh đề nguyên tử bằng cách sử dụng toán tử về hàm bảo thực (truth-functional operators) (5). Wittgenstein dẫn ra, trong Tractatus, biểu đạt đầu tiên của lôgíc Frege trong hình thức đã được biết đến - “bảng chân lý” (truth-tables). Việc này cung cấp những cách thức để quay lại phân tích mọi mệnh đề thành những thành phần nguyên tử của chúng, bởi “mọi phát biểu về những phức hợp (complex) đều có thể phân tích thành một phát biểu về những thành phần cấu thành của chúng và thành những mệnh đề mô tả một cách toàn diện những phức hợp đó” (Tractatus 2.0201). Ông còn đào sâu vấn đề hơn nữa bằng cách sau đó, cung cấp hình thức chung của một mệnh đề (6). Hình thức đó [ , , N( )] sử dụng một phép toán bình thường (N( )) và một biến số mệnh đề ( ) để diễn tả nhận định của Wittgenstein rằng, mọi mệnh đề “là kết quả của những ứng dụng liên tiếp” của những phép toán lôgíc đối với những mệnh đề sơ đẳng. Phát triển sự phân tích đó đối với bộ ba thế giới – tư tưởng – ngôn ngữ và dựa vào một hình thức chung của mệnh đề, Wittgenstein đến đây đã có thể khẳng định rằng, mọi mệnh đề có nghĩa đều có cùng giá trị. Sau đó, ông đi đến kết luận với lời cảnh báo về cái có thể (hay không thể) và cái nên (hay không nên) nói ra (7), bước ra khỏi địa hạt của những mệnh đề có thể nói lên của đạo đức học, mỹ học và siêu hình học”(5). Một nội dung quan trọng khác của Tractatus là bản thân việc phân tích mệnh đề - để phân biệt mệnh đề có nghĩa và mệnh đề vô nghĩa. Việc phân tích này xuất phát từ những nghiên cứu về khả năng mô phỏng thế giới của mệnh đề để dẫn đến những kết luận sâu xa hơn về bản chất của triết học. “Cái chung nhất giữa mệnh đề và tình huống là hình thức lôgíc, mà hình thức lôgíc cũng là cái quyết định nghĩa (sense) của mệnh đề. Nghĩa của mệnh đề chính là tình huống mà mệnh đề đó biểu đạt. “Thay vì nói “mệnh đề này có nghĩa như thế này hay thế nọ”, chúng ta chỉ cần đơn giản nói “mệnh đề này biểu đạt một tình huống như vậy” (Tractatus 4.031). Như vậy, theo cách nói của Wittgenstein, chỉ có những mệnh đề của ngôn ngữ biểu đạt được thực sự những sự vật của thực tại có thể kết hợp với nhau như thế nào mới là những mệnh đề có nghĩa, bởi vì nghĩa chỉ gắn với mệnh đề khi mệnh đề là những hình hoạ (bức tranh) của thực tại mô tả các tình huống có thể có”(6). Nghĩa là, theo Wittgenstein, mệnh đề có nghĩa chỉ là những mệnh đề của khoa học tự nhiên; còn những mệnh đề loại khác đều bị loại ra khỏi phạm vi “có nghĩa”. Trong quan điểm của Wittgenstein, những mệnh đề không nằm trong phạm vi “có nghĩa” thì hoặc là vô nghĩa (senseless) hoặc là phi ý nghĩa (nonsense). Những mệnh đề vô nghĩa gồm có những mệnh đề lôgíc – chúng “không đại diện cho các trạng huống sự việc và những hằng số lôgíc không đại diện cho những đơn thể. “Tư tưởng căn bản của tôi là những hằng số lôgíc không đại diện (cho cái gì hết). Rằng, lôgíc của các sự kiện không thể được đại diện” (Tractatus 4.0312)”(7). Ngoài ra, còn có những mệnh đề mà không đại diện cho các trạng huống sự việc, như toán học, hoặc “bản thân hình thức mang tính hình ảnh của bức tranh mà hình thức đó đại diện”, đều là những cái không thể được đại diện, chúng là những mệnh đề vô nghĩa, tức là không có ý nghĩa. Ngoài các mệnh đề vô nghĩa, Wittgenstein còn phân biệt những mệnh đề phi ý nghĩa (nonsense) – không phải là vô nghĩa, mà “vượt quá ranh giới của ý nghĩa”, tìm cách nói lên những gì không thể nói lên được. Những mệnh đề triết học (của khoa siêu hình học truyền thống, của quan điểm “cái tôi” trong thuyết duy ngã, của đạo đức học, của mỹ học, v.v.) là những mệnh đề thuộc loại này. Nhưng, phi ý nghĩa không phải là đáng loại bỏ. Ở đây, Wittgenstein đã đưa ra quan điểm về “nói lên” và “thể hiện ra”. Những mệnh đề phi ý nghĩa chỉ có thể thể hiện ra chứ không thể được nói lên. “Cái có thể được thể hiện ra thì không thể nói lên được” (Tractatus 4.1212). Những lập luận trên đã dẫn đến những kết luận về triết học, như: “Hầu hết các mệnh đề và các câu hỏi trong các tác phẩm triết học không sai mà là phi ý nghĩa. Do vậy, ta không thể có câu trả lời cho những câu hỏi thuộc loại ấy, mà chỉ có thể chỉ ra rằng chúng phi ý nghĩa. Hầu hết các mệnh đề và các câu hỏi của các nhà triết học xuất phát từ sự sai lầm của chúng ta trong việc hiểu về lôgíc của ngôn ngữ của chúng ta. (…) Và không đáng ngạc nhiên khi những vấn đề sâu xa nhất thực chất lại không phải là vấn đề gì hết” (Tractatus 4.003); “Triết học không phải là một môn khoa học tự nhiên. Từ ngữ “triết học” phải biểu đạt một cái gì đứng trên hoặc dưới, chứ không phải đứng cạnh các khoa học tự nhiên” (Tractatus 4.111). “Hầu hết các mệnh đề và câu hỏi trong triết học là phi ý nghĩa”. Vậy, triết học để làm gì (triết học có còn cần thiết nữa hay không)? Câu trả lời của Wittgenstein là một sự nhìn nhận lại bản chất của triết học: “Triết học không phải là một lý thuyết, mà là một hành động” (Tractatus 4.112), một hành động lọc gạn (bằng công cụ lôgíc) làm sáng tỏ tư tưởng. “Triết học không có kết quả là “các mệnh đề triết học” mà đúng hơn là sự làm sáng tỏ các mệnh đề. Không có triết học, tư tưởng, như nó đã từng là thế, mù mờ và tối nghĩa: nhiệm vụ của triết học là làm cho chúng trở nên sáng tỏ và đưa lại cho chúng những ranh giới rõ ràng” (Tractatus 4.112). Một mặt, quan điểm như vậy về triết học có một ý nghĩa sâu xa – nó phủ nhận tính chất giáo điều của triết học truyền thống, điều này được đánh giá là một bước tiến trong quá trình xem xét lại bản chất của triết học. Mặt khác, nó lại làm cho bản thân Tractatus phải đối mặt với nguy cơ rơi vào tình trạng “phi ý nghĩa”. Bởi “những khái niệm mà Tractatus sử dụng – những khái niệm triết học - lôgíc – không thuộc về thế giới và vì thế không thể được sử dụng để diễn đạt bất cứ cái gì có nghĩa”(8). Wittgenstein đã “giải quyết” tình trạng này bằng ẩn dụ về cái thang ở những câu cuối cùng của tác phẩm: “Những mệnh đề của tôi được đưa ra với tư cách những giải thích theo nghĩa sau: ai hiểu tôi rốt cuộc sẽ thấy rằng chúng là phi ý nghĩa, khi anh ta đã sử dụng chúng – như những bậc thang – để leo lên trên chúng. (Anh ta phải, có thể nói như vậy, vứt cái thang đi sau khi đã dùng nó để leo lên cao). Anh ta phải vượt qua những mệnh đề đó và từ đó, có thể nhìn rõ thế giới” (Tractatus 6.54). Có thể nói, Tractatus đã bao quát toàn bộ tư tưởng của Wittgenstein thời sơ kỳ. Chính ông – sau khi xuất bản tác phẩm – đã coi nó như sự giải quyết triệt để mọi “vấn nạn triết học” và không còn việc gì để làm trong triết học nữa. Tuy nhiên, rốt cuộc, Wittgenstein đã không dừng lại ở Tractatus. Càng về sau, ông càng nhận thấy Tractatus có những thiếu sót, rồi những sai lầm xuất phát từ chính những giả định đầu tiên của nó. Ông đã đi đến phủ nhận tác phẩm này của mình và trên cơ sở phá huỷ những nền tảng của Tractatus mà xây dựng những quan điểm hoàn toàn mới. Điều này tạo nên giai đoạn thứ hai trong tiến trình tư tưởng của Wittgenstein, được đại diện bởi Những nghiên cứu triết học. 2. Wittgenstein hậu kỳ và Những nghiên cứu triết học Những nghiên cứu triết học được xuất bản vào năm 1953, bao gồm hai phần. Phần I do chính Wittgenstein hoàn thiện, được dự định phát hành năm 1946 nhưng sau đó, ông lại đề nghị huỷ việc in. Phần II do những người biên tập – những người được uỷ thác trông coi và khai thác di sản của Wittgenstein – thêm
Tài liệu liên quan