Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư được biểu hiện rất đa dạng. Nếu căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư, có thể chia đầu tư thành: ĐTTT và ĐTGT. Trong đó ĐTTT là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng các nguồn vốn đầu tư. Đặc điểm nổi bật của các hình thức đầu tư này là các nhà đầu tư thường kiểm soát hoạt động và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp có vốn đầu tư của mình. Trong hoạt động ĐTTT không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư. Theo Luật đầu tư (2005) của Việt Nam, ĐTTT là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư (Khoản 2, điều 3). ĐTTT có thể là ĐTTT trong nước hoặc ĐTTTNN. ĐTTT trong nước có nội dung là việc bỏ vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước để kinh doanh theo các hình thức do pháp luật quy định. FDI là một loại quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài, được đặc trưng bởi sự di chuyển nguồn lực đầu tư trên phạm vi quốc tế với mục đích kinh doanh thu lợi nhuận.
62 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1568 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
1. Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư được biểu hiện rất đa dạng. Nếu căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư, có thể chia đầu tư thành: ĐTTT và ĐTGT. Trong đó ĐTTT là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng các nguồn vốn đầu tư. Đặc điểm nổi bật của các hình thức đầu tư này là các nhà đầu tư thường kiểm soát hoạt động và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp có vốn đầu tư của mình. Trong hoạt động ĐTTT không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư. Theo Luật đầu tư (2005) của Việt Nam, ĐTTT là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư (Khoản 2, điều 3). ĐTTT có thể là ĐTTT trong nước hoặc ĐTTTNN. ĐTTT trong nước có nội dung là việc bỏ vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước để kinh doanh theo các hình thức do pháp luật quy định. FDI là một loại quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài, được đặc trưng bởi sự di chuyển nguồn lực đầu tư trên phạm vi quốc tế với mục đích kinh doanh thu lợi nhuận.
Hiện nay, hoạt động FDI đang diễn ra ở hầu hết các nước trên thế giới. Mặc dù xu hướng phổ biến là các nước không có sự phân biệt trong cơ chế điều chỉnh pháp luật giữa ĐTTT trong nước và FDI, khái niệm FDI vẫn được định nghĩa trong luật pháp của nhiều nước, như luật khuyến khích đầu tư của Thái Lan, luật khuyến khích và bảo hộ ĐTNN của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, luật khuyến khích đầu tư áp dụng cho từng ngành của Hàn Quốc…
Theo quỹ Tiền tệ Quốc tế, FDI là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp ĐTTT trong một quốc gia khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI [28].
Tổ chức Thương mại thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác [29].
Như vậy, FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài (chủ đầu tư, vốn đầu tư và địa điểm đầu tư từ các quốc gia khác nhau). Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ FDI mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản trong FDI vượt ra ngoài tầm kiểm soát của một quốc gia. Việc di chuyển tư bản này là nhằm phục vụ mục đích kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư mà việc kinh doanh đó do chính các chủ đầu tư nước ngoài thực hiện hoặc kết hợp với chủ đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư thực hiện.
FDI bao gồm ĐTTT từ nước ngoài và ĐTTTRNN. Ở bất cứ quốc gia nào thì hai hoạt động này cũng phải được tiến hành một cách đồng thời. Để phát triển kinh tế, các quốc gia không chỉ phải thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn ĐTTT từ nước ngoài mà còn không ngừng đẩy mạnh ĐTTTRNN, nhằm mở rộng thị trường nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp cận gần khách hàng, tận dụng nguồn tài nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hoá, tránh được chế độ giấy phép xuất khẩu trong nước và tận dụng được quota xuất khẩu của nước sở tại để mở rộng thị trường, đồng thời tăng cường khoa học - kĩ thuật, nâng cao năng lực quản lý và trình độ tiếp thị với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Ở Việt Nam, khái niệm FDI đã được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật về đầu tư. Văn bản pháp lý đầu tiên về FDI là Điều lệ về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/04/1977. Điều lệ này không nêu định nghĩa cụ thể FDI nhưng tinh thần cơ bản giống như khái niệm FDI được ghi nhận sau này trong Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam năm 1987 cũng như Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 như sau: “FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh, hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài”. Như vậy, khái niệm FDI được hiểu là ĐTTT từ nước ngoài vào Việt Nam, còn ĐTTT từ Việt Nam ra nước ngoài không thuộc phạm vi điều chỉnh của các Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghĩa là trong một thời gian dài chúng ta không hề có một quy định pháp luật nào điều chỉnh về ĐTTTRNN. Điều này xuất phát từ thực tiễn đất nước còn nhiều khó khăn, vốn tích luỹ thấp, trình độ quản lý, trình độ khoa học kĩ thuật còn hạn chế cộng thêm cả cách nghĩ lạc hậu “đem tiền ra nước ngoài là đất nước bị hụt vốn” đã không cho phép các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài [13]. Hiện nay, Việt Nam đã có sự thay đổi về mọi mặt, có vốn dư thừa tương đối, có khả năng tài chính, kinh nghiệm quản lý và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Quan điểm mới khẳng định rằng ĐTRNN là cần thiết, tạo điều kiện nối dài cánh tay của doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường thế giới [10]. Vì vậy, đến NĐ 22 năm 1999 thì ĐTTTRNN mới chính thức được ghi nhận, theo đó khái niệm ĐTTTRNN được định nghĩa như sau: “ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam là việc DN Việt Nam đưa vốn bằng tiền và tài sản khác ra nước ngoài để ĐTTTRNN theo quy định của nghị định này” (Khoản 1, điều 1).
Hiện nay, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTRNN đã chính thức được pháp điển hoá vào Luật đầu tư (2005). Khoản 14 Điều 3 Luật đầu tư định nghĩa: “ĐTRNN là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư”. Sau đó, NĐ 78 năm 2006 được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành Luật đầu tư (2005) về ĐTTTRNN, theo đó khái niệm ĐTTTRNN được định nghĩa một cách đầy đủ như sau: “ĐTTTRNN là việc nhà đầu tư chuyển vốn ĐTRNN để thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài” (Khoản 1, điều 3).
1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.2.1. Về chủ thể của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Hoạt động ĐTTTRNN chủ yếu do các nhà đầu tư là tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thực hiện. Đây là một đặc điểm giúp phân biệt với hoạt động ĐTRNN của Chính phủ và các tổ chức quốc tế dưới nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).
1.2.2. Về nguồn vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Đối với ĐTTTRNN, vốn đầu tư có thể bằng tiền, tài sản khác hoặc bằng công nghệ. Vì vậy, thông qua hoạt động đầu tư này, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến và học hỏi được kinh nghiệm quản lý do nhà ĐTNN đưa vào. Còn đối với ĐTGT ra nước ngoài, vốn chỉ có thể là tiền, không thể là hiện vật hoặc công nghệ. Nên DN nhận vốn không thể tiếp nhận công nghệ hiện đại trực tiếp từ việc tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp của các nhà ĐTNN. ĐTGT ra nước ngoài dưới hình thức ODA bao gồm các loại nguồn như: a) hỗ trợ tài chính: cung cấp tiền ở dạng cho không hay cho vay lãi suất thấp; b) hỗ trợ kỹ thuật: cung cấp cố vấn và những chuyên gia kỹ thuật mà nước tiếp nhận đang thiếu; c) hỗ trợ bằng hiện vật: dưới dạng hàng hoá như tư liệu sản xuất, lương thực, thực phẩm…[7].
1.2.3. Về mục đích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Quan hệ FDI là quan hệ kinh doanh theo cơ chế thị trường, có mục đích kinh doanh. Vì vậy, lợi nhuận là mục tiêu cao nhất của các chủ đầu tư. Còn trong ĐTGT ra nước ngoài của Chính phủ và các tổ chức quốc tế dưới hình thức ODA, kinh doanh và lợi nhuận không phải là mục tiêu trực tiếp của chủ đầu tư bởi quan hệ này không phải là quan hệ kinh doanh một cách thuần tuý. Mục đích ODA có thể là: a) tính đoàn kết quốc tế: như quyết định của Liên hiệp quốc là các nước giàu phải dành 0,7% GDP cho viện trợ cho các nước nghèo; b) lợi ích thương mại: các nước tài trợ muốn dùng viện trợ như một biện pháp để tăng cường xuất khẩu sang các nước đang phát triển và có thể áp dụng các ràng buộc thương mại đối với phần viện trợ của họ; c) lợi ích chính trị: các nước tài trợ muốn khuyến khích Chính phủ các nước tiếp nhận viện trợ thay đổi chính sách của họ về khía cạnh nào đó, ví dụ như: thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chống tham nhũng, các yêu cầu liên quan đến nhân quyền…[7].
1.2.4. Về tính chất của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Nếu như ở ĐTGT nước ngoài, nhà ĐTNN góp vốn bằng cách mua cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp nước sở tại mà không trực tiếp nắm quyền quản lý doanh nghiệp thì ở ĐTTTRNN, nhà đầu tư lại đóng góp một số vốn đủ lớn để có quyền tham gia trực tiếp vào việc quản lý đối tượng đầu tư. Nhà đầu tư bỏ vốn tự quyết định đầu tư vào lĩnh vực gì và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Để ĐTTTRNN, nhà đầu tư phải điều tra nắm bắt thị trường, tìm hiểu tình hình thế giới liên quan đến lĩnh vực đầu tư, đưa ra quyết định đầu tư, xây dựng dự án đầu tư, thực hiện dự án và hưởng thành quả của nó. ĐTTTRNN bảo đảm cho nhà đầu tư kiểm soát và điều hành quá trình vận động vốn đầu tư. Do chủ thể đầu tư bỏ vốn hoàn toàn hoặc có số vốn lớn trong phần vốn góp, do đó nhà đầu tư hoàn toàn có thể kiểm soát hoạt động sản xuất hoặc chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhà đầu tư thường có kiến thức và kinh nghiệm quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài, hiểu biết về thị trường thế giới chính về thế mà có khả năng bảo đảm hiệu quả của doanh nghiệp hoặc dự án đầu tư.
1.2.5. Về mối quan hệ giữa nhà đầu tư với nước tiếp nhận đầu tư
Vì là quan hệ có mục đích kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận nên quan hệ ĐTTTRNN chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường, ít chịu ảnh hưởng và ràng buộc bởi các quan hệ chính trị. Còn đối với đầu tư gián tiếp ODA thì quan hệ này lại mang đậm màu sắc chính trị, bị ảnh hưởng bởi quan hệ giữa các quốc gia với nhau và với các tổ chức tài chính quốc tế, ít chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế. Hơn nữa, nước tiếp nhận ODA không chỉ bị biến thành con nợ mà còn phải bảo đảm một số điều kiện khác manh tính chính trị như phải bảo đảm tốc độ tăng trưởng, ổn định tỷ lệ lạm phát, cân bằng cán cân thanh toán, phải giảm chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước…
1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
ĐTRNN nói chung và ĐTTTRNN nói riêng là một xu thế tất yếu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, chính vì vậy mà vai trò, ý nghĩa của hoạt động này là không thể phủ nhận.
1.3.1. Vai trò, ý nghĩa chung
Đối với nước có nhà đầu tư trực tiếp ra nước ngoài :
- Thứ nhất: ĐTTTRNN giúp cho các nước đầu tư sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước, nâng cao tỷ suất lợi nhuận đầu tư, đồng thời khai thác có hiệu quả lợi thế của quốc gia trên trường quốc tế. Trong nền kinh tế toàn cầu, các quốc gia sẽ phát triển nhanh với những lợi thế riêng có của mình, góp phần vào quá trình thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Bằng việc tận dụng những lợi thế riêng có, các quốc gia sẽ có chiến lược đầu tư ra thị trường nước ngoài phù hợp để thu về lợi nhuận cao nhất cho mình.
- Thứ hai: ĐTTTRNN giúp cho nước đầu tư tìm kiếm và tận dụng ở nước ngoài một cách có hiệu quả hơn trong nước, xây dựng được thị trường cung cấp đầu vào ổn định với giá cả phải chăng. Nguồn tài nguyên thiên nhiên của các nước đang phát triển có nhiều nhưng không có điều kiện chế biến vì thiếu vốn, công nghệ. Do đó, đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao nhất. Vì vậy các quốc gia thiếu tài nguyên thiên nhiên như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc coi đây là một chính sách nhằm cân bằng sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên trong nước [9].
- Thứ ba: ĐTTTRNN giúp cho các nhà đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đối với sự ra đời của một sản phẩm, chiếm lĩnh được thị trường là yếu tố sống còn. Khi hầu hết các quốc gia đều gia nhập vào một thị trường chung - Thị trường thế giới – thì vấn đề thị trường cho sản phẩm lại càng trở nên bức thiết. Doanh nghiệp nào có chiến lược đưa được sản phẩm của mình ra nước ngoài trước, chiếm lĩnh được thị trường trước thì doanh nghiệp đó sẽ thành công.
- Thứ tư: ĐTTTRNN giúp cho các nước đầu tư tránh được hàng rào thuế quan và hàng rào bảo hộ phi thuế quan của nước nhận đầu tư. Trong giai đoạn đầu của nền kinh tế toàn cầu, vẫn còn rất nhiều hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dựng lên trên cơ sở nhiều lý do khác nhau. ĐTTTRNN sẽ giúp các quốc gia đầu tư mở rộng thị trường cho hàng hoá của mình mà không vướng phải bất cứ sự cản trở nào. Điều này cũng giúp cho hàng hoá của các quốc gia đầu tư có sức cạnh tranh nhờ giá cả hợp lý.
- Thứ năm: ĐTTTRNN sẽ giúp cho không chỉ các doanh nghiệp của các nước đầu tư mà còn của nước tiếp nhận tự hoàn thiện mình cả về mặt cơ cấu sản phẩm, công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Đối với các nước đầu tư, ở môi trường đầu tư mới, doanh nghiệp muốn đứng vững phải tìm cách thích ứng với thị trường, đáp ứng những đòi hỏi của thị trường mới có thể tồn tại.
Ngoài ra ĐTTTRNN còn cho phép các công ty nước ngoài kéo dài chu kỳ sống của các sản phẩm mới được tạo ra trong nước, đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư.
- Thứ nhất: Bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế.
Trước hết, ĐTTTRNN đóng vai trò là một nguồn cung cấp vốn lớn, góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư - một căn bệnh kinh niên và phổ biến của bất kỳ quốc gia chậm phát triển nào. Bởi thực tế, ở các nước này có nhiều tiềm năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên nhưng do trình độ còn thấp kém, cơ sở vật chất còn nghèo, lạc hậu nên chưa có điều kiện khai thác các tiềm năng ấy. Các nước này chỉ có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo bằng cách tăng cường đầu tư sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Để thực hiện được việc này các nước đang phát triển cần phải có nhiều vốn đầu tư.
- Thứ hai: Cung cấp công nghệ mới cho sự phát triển.
Bên cạnh vai trò cung cấp vốn, ĐTTTRNN còn mang lại cho nước tiếp nhận đầu tư những kỹ thuật công nghệ tiên tiến, góp phần phát triển lực lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế… Do khi tiến hành đầu tư vào một nước nào đó chủ đầu tư không chỉ chuyển giao vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu…và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường…Thông qua hoạt động ĐTTTRNN, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên nhận đầu tư lẫn bên đầu tư.
- Thứ ba: Đào tạo nguồn nhân lực.
ĐTTTRNN có vai trò như là một hình thức đào tạo giúp nước tiếp nhận đầu tư kiến thức sử dụng công nghệ hiện đại và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng dần trình độ sản xuất kinh doanh của đất nước, hoà nhập vào phân công lao động quốc tế. Hơn thế nữa, ĐTTTRNN cũng góp phần đào tạo một đội ngũ công nhân có trình độ kỹ thuật cao cho đất nước, hạn chế tình trạng thất nghiệp, nâng cao mức thu nhập cho người lao động.
- Thứ tư: Góp phần mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu.
Trong thời đại ngày nay, nước ta cũng như các nước trên thế giới đều có nhu cầu mở rộng thị trường cả trong nước và nước ngoài. Đa số các dự án ĐTTTRNN đều có phản ánh bao tiêu sản phẩm. Đây là hiện tượng đa chiều đang trở thành khá phổ biến ở các nước đang phát triển hiện nay [20].
- Thứ năm: Góp phần tăng thu ngân sách, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
ĐTTTRNN đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế, phí tiền thuê đất… của các đơn vị đầu tư nước ngoài. Đồng thời tranh thủ vốn và công nghệ của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát triển thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy quốc gia nào thực hiện chiến lược mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ các nhân tố bên ngoài biến nó trở thành nhân tố bên trong thì quốc gia đó sẽ tạo được sự tăng trưởng kinh tế cao.
1.3.2. Vai trò, ý nghĩa riêng đối với Việt Nam
Là một nước nông nghiệp lạc hậu, có xuất phát điểm thấp, các doanh nghiệp Việt Nam gần đây mới mạnh dạn tiến hành ĐTTTRNN. Mặc dù là một lĩnh vực đầu tư mới nhưng trong một thời gian ngắn đã thu lại được những kết quả rất khả quan. Bên cạnh những vai trò không thể phủ nhận của hoạt động ĐTTTRNN đối với việc phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới, đối với Việt Nam, hoạt động này còn vô cùng ý nghĩa, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
- Thứ nhất: ĐTTTRNN giúp các nhà đầu tư ở Việt Nam khai thác được lợi thế so sánh của nước tiếp nhận đầu tư, qua đó tận dụng được chi phí sản xuất thấp của nước tiếp nhận đầu tư để sản xuất ra được những sản phẩm có giá thành hạ hơn so với sản phẩm sản xuất trong nước, giảm được chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước tiếp nhận đầu tư, nhờ đó nâng cao hiệu quả đầu tư.
- Thứ hai: ĐTTTRNN còn giúp các nhà đầu tư Việt Nam mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa của các nước nước lớn như: Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia… có sức hấp dẫn mạnh.
- Thứ ba: Ngoài ra ĐTTTRNN mang về cho đất nước một lượng ngoại tệ đáng kể góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Thứ tư: Và một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với một nước đang phát triển như Việt Nam là hoạt động ĐTTTRNN sẽ là cánh cửa mở ra con đường giao lưu phát triển kinh tế trên phạm vi quốc tế, là bước tiếp cận với thị trường thế giới, đưa Việt Nam đến gần với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi hiện nay, không thể có một nền kinh tế của quốc gia nào lại có thể tồn tại, phát triển bằng sản xuất của riêng mình và chỉ khép kín trong phạm vi một quốc gia. Có thể thấy rằng, thế giới ngày nay đang tiến tới một khung pháp lý chung trong lĩnh vực kinh tế: khung pháp lý WTO. Trong thời đại toàn cầu hoá, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia là tất yếu và ngày càng sâu sắc; sự phân chia công việc là một nguyên tắc quan trọng trong xúc tiến kinh tế và thể hiện sự phân công lao động xã hội trên phạm vi quốc tế. Vấn đề hợp tác kinh tế và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã trở thành xu thế tất yếu và khách quan của nhân loại trong thế kỷ XXI [15].
2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Hoạt động ĐTTTRNN tại Việt Nam đã bắt đầu được thực hiện từ năm 1989. Tuy nhiên cho đến tận năm 1999, văn bản pháp lý đầu tiên quy định về ĐTRNN của các DN Việt Nam mới được ban hành, đó là NĐ 22 năm 1999. Đây có thể coi là một sự bất cập của hệ thống quy phạm pháp luật khi không thể theo kịp để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống dẫn đến trong một thời gian dài, các nhà đầu tư tiên phong gặp vô vàn khó khăn, không chỉ ở việc thiếu thông tin thị trường, thiếu vốn, thiếu khoa học công nghệ, sự hỗ trợ của nhà nước mà còn thiếu cả cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ đầu tư trong lĩnh vực này. Theo một chuyên gia của Bộ KH - ĐT, vấn đề đẩy mạnh ĐTRNN trước kia có hai quan điểm: có quan điểm cho rằng chưa đặt vấn đề khuyến khích ĐTRNN vì cho rằng ĐTRNN là chảy máu ngoại tệ. Nước ta đang cần khuyến khích đầu tư trong nước để phát triển chưa đến lúc ĐTRNN. Tuy nhiên lại có quan điểm khác cho rằng cần khuyến khích ĐTRNN để nối dài cánh tay của doanh nghiệp ra ngoài cả về thị trường [17]. Hiện nay, quan điểm thứ hai đang trở nên phù hợp với thực tiễn và nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO. Sau một thời gian dài đổi mới và phát triển, DN Việt Nam cũng đã có tích luỹ và có thể đầu tư ra nước ngoài để đáp ứng nhu cầu phát triển của mình. Nhờ vậy mà các quy định