Lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa: Trình bày và so sánh với một số tiếp cận định tính khác

Lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa (grounded theory) là một trong các các lối tiếp cận chính của nghiên cứu định tính. Ngày nay nó được sử dụng rộng rãi trong các bộ môn khoa học xã hội, nhân văn, cả trong y khoa và công nghệ thông tin. Bài viết trình bày nguồn gốc lý thuyết, phương pháp luận, các qui trình của lý thuyết. Đặc biệt một số tương đồng và khác biệt của lý thuyết trên với một số tiếp cận định tính khác cũng được đặt ra. Kết luận bài viết đề cập đến vài hạn chế và đóng góp của lối tiếp cận này

pdf12 trang | Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 696 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa: Trình bày và so sánh với một số tiếp cận định tính khác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/329905589 LÝ THUYẾT ĐẶT CƠ SỞ TRÊN DỮ KIỆN THỰC ĐỊA: TRÌNH BÀY VÀ SO SÁNH VỚI MỘT SỐ TIẾP CẬN ĐỊNH TÍNH KHÁC (Introduction to grounded theory and comparison with some other qualitative appro... Article · December 2018 CITATIONS 0 READS 222 1 author: Some of the authors of this publication are also working on these related projects: Environmental Education View project Social Theory View project Nguyen Xuan Nghia Ho Chi Minh City Open University 59 PUBLICATIONS   29 CITATIONS    SEE PROFILE All content following this page was uploaded by Nguyen Xuan Nghia on 25 December 2018. The user has requested enhancement of the downloaded file. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI SOÁ 9(145)-2010 9 LÝ THUYẾT ĐẶT CƠ SỞ TRÊN DỮ KIỆN THỰC ĐỊA: TRÌNH BÀY VÀ SO SÁNH VỚI MỘT SỐ TIẾP CẬN ĐỊNH TÍNH KHÁC NGUYỄN XUÂN NGHĨA TÓM TẮT Lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa (grounded theory) là một trong các các lối tiếp cận chính của nghiên cứu định tính. Ngày nay nó được sử dụng rộng rãi trong các bộ môn khoa học xã hội, nhân văn, cả trong y khoa và công nghệ thông tin. Bài viết trình bày nguồn gốc lý thuyết, phương pháp luận, các qui trình của lý thuyết. Đặc biệt một số tương đồng và khác biệt của lý thuyết trên với một số tiếp cận định tính khác cũng được đặt ra. Kết luận bài viết đề cập đến vài hạn chế và đóng góp của lối tiếp cận này. Các phương pháp trong nghiên cứu định tính được đề cập đến thường bao gồm: qui nạp phân tích (analytic induction), dân tộc học mô tả, phương pháp hiện tượng luận và lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa (grounded theory)(1). Lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa là một phương pháp do hai nhà xã hội học Mỹ Glaser và Strauss đưa ra trong tác phẩm Khám phá lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa. Các chiến lược cho nghiên cứu định tính) ([1967], 2009). Hai ông đã dần hình thành lý thuyết từ cuộc nghiên cứu năm 1965, Nhận thức về sự hấp hối (1965). Lý thuyết này dần dần được ứng dụng trong các lãnh vực y tế, tiếp thị, giáo dục, tâm lý học, phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu tổ chức và các lãnh vực khác như hệ thống thông tin (Fernandez, 2004). Số lượng nghiên cứu ứng dụng lối tiếp cận này càng ngày càng gia tăng, lấy thí dụ trong lãnh vực sức khỏe, điều dưỡng, Benoliel đã thống kê, năm 1980 có 5 nghiên cứu dựa trên lý thuyết này, năm 1984: 225 nghiên cứu, năm 1995: 1997 nghiên cứu (Egen, 2002, tr. 279). Cuốn sách nêu trên của Glaser và Strauss (1967) được trích dẫn trong 21.201 bài viết; cuốn sách của Strauss và Corbin (1990) được trích dẫn trên 14.438 bài viết(2). 1. NGUỒN GỐC LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN Mặc dù có những tương đồng với nhân học xã hội là nhằm làm rõ cơ cấu, tính qui luật của các hiện tượng xã hội, nhưng trong khi nhân học xã hội đặt ưu tiên vào việc mô tả, lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa có mục đích xây dựng một lý thuyết từ những KINH TEÁ HOÏC - XAÕ HOÄI HOÏC Nguyễn Xuân Nghĩa. Tiến sĩ. Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. NGUYEÃN XUAÂN NGHÓA – LYÙ THUYEÁT ÑAËT CÔ SÔÛ TREÂN DÖÕ KIEÄN 10 dữ kiện thực địa. Nguồn gốc của lý thuyết này xuất phát từ những trào lưu tư tưởng lớn của hai trường đại học Mỹ là đại học Columbia, nơi tốt nghiệp của B. G. Glaser và ông rất gần gũi với P. Lazarsfeld, và đại học Chicago nơi A. Strauss được đào tạo. Do vậy lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa không hoàn toàn độc đáo, bởi lẽ nó hệ thống và triển khai một số qui tắc của trường phái Chicago. Người ta nhận thấy có nhiều nét thân thuộc giữa phương pháp này với các lối tiếp cận trước đó như lý thuyết tương tác biểu tượng, qui nạp phân tích. Phương pháp này được sử dụng phối hợp với các phương pháp khác như dân tộc học, nghiên cứu tiểu sử (life history) hay phương pháp luận dân dã (ethnomethodology). Phương pháp này nhằm xây dựng các lý thuyết có cơ sở thực nghiệm từ các hiện tượng xã hội. Như vậy, nó được xem như là một phản ứng chống lại sự tư biện lý thuyết tách rời khỏi thực tại, đồng thời chống lại trào lưu định lượng thực chứng mà C. Mills đã phê bình, bởi lẽ trào lưu này không có ý nghĩa lý thuyết, thiếu nghiêm cẩn trong việc giải thích các dữ kiện và không lý giải được ý nghĩa xã hội học của các kết quả nghiên cứu. Glaser và Strauss muốn hình thành một phương pháp nhằm xây dựng các lý thuyết phản ánh tính đa dạng, phong phú của xã hội đồng thời cho ra đời những nghiên cứu có giá trị và được kiểm nghiệm cách hệ thống bằng các mẫu thâu thập dữ kiện chặt chẽ. Phương pháp luận của lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa còn bắt nguồn từ lý thuyết thực dụng (pragmatism) Mỹ và triết học hiện tượng luận. Các tác giả của lý thuyết này thấy sự cần thiết phải cắm chặt lý thuyết trong thực tiễn để đẩy mạnh các bộ môn khoa học và nhận thức được tầm quan trọng của quan sát thực địa trong việc thấu hiểu các hiện tượng xã hội. Việc quan sát này chú trọng đến những biến đổi, những quá trình và tính đa dạng của thực tại xã hội (Strauss và Cobin, 1990, 25). Với hiện tượng luận, lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa chịu ảnh hưởng nguyên tắc giản hóa (reduction), có nghĩa là đặt qua một bên những khái niệm có sẵn về hiện tượng, để chính hiện tượng tự bộc lộ mình. Lý thuyết này không chấp nhận việc kiến tạo trước các khái niệm hay giả thiết về hiện tượng nghiên cứu. Chúng chỉ được xây dựng và kiểm chứng dần dần theo tiến độ cuộc nghiên cứu trên thực địa. Lối tiếp cận này nằm trong một quan điểm nhận thức luận lớn hơn vốn chủ trương rằng xã hội không phải là dữ kiện có sẵn như quan niệm của thuyết duy thực chứng, mà được kiến tạo liên tục bởi những tác nhân xã hội. Nhấn mạnh tầm quan trọng của tác nhân xã hội, nhưng lý thuyết này không quên lãng bối cảnh xã hội trong đó hình thành các hành động của các tác nhân (Strauss, Cobin, 1990). Cho dù, sau này có một số khác biệt giữa Glaser và Strauss, qui trình nghiên cứu của hai ông đều đi qua các bước: xác định đối tượng nghiên cứu, thâu thập dữ kiện, mã hoá, so sánh, hình thành khái niệm, chọn mẫu theo lý thuyết, phát triển chủ đề cốt lõi (core category), đưa ra lý thuyết (Walker, Myrick, 2006, tr. 550). 2. CÁC QUY TRÌNH CỦA LÝ THUYẾT ĐẶT CƠ SỞ TRÊN DỮ KIỆN THỰC ĐịA 2.1. Xác định đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của lý thuyết này là một hiện tượng xã hội mà ta muốn đào sâu NGUYEÃN XUAÂN NGHÓA – LYÙ THUYEÁT ÑAËT CÔ SÔÛ TREÂN DÖÕ KIEÄN 11 phân tích lý thuyết. Đối tượng này có thể xác định từ những quan tâm lý thuyết hay ứng dụng – ví như quá trình hình thành các quan hệ liên tộc người, việc thực hiện các chính sách nhằm hội nhập những người di dân. Điều quan trọng chính là đối tượng này liên quan đến các quá trình, có nghĩa là tìm hiểu sự biến đối của một hiện tượng. Hơn nữa, lúc khởi đầu đối tượng nghiên cứu có thể được xác định rộng hay hẹp là do cách thức phân tích tập trung vào việc xây dựng các khái niệm cho phép hiểu rõ hiện tượng nghiên cứu, vì vậy một cách nào đó đối tượng nghiên cứu không có ranh giới. Thí dụ việc tìm hiểu các dịch vụ y tế có thể đòi hỏi việc hiểu sâu tổ chức tổng quát các chăm sóc y tế (Hennebo N. 2009).Việc tìm hiểu một hiện tượng xã hội đôi lúc đòi hỏi việc hiểu toàn bộ hệ thống xã hội. Hơn nữa một trong những đặc điểm của phương pháp này là đối chiếu với những tình huống tương tự nhưng có điểm tương phản. Việc xác định đối tượng nghiên cứu có vẻ không rõ ràng trong lý thuyết này thường gây nghi ngờ cho những người chỉ quen thuộc với lối nghiên cứu định lượng. 2.2. Chọn lựa địa điểm, tình huống hay nhóm cuộc nghiên cứu nhắm tới Việc chọn lựa địa điểm, tình huống hay nhóm nào tùy thuộc câu hỏi nghiên cứu và đặc biệt tùy thuộc tính phù hợp lý thuyết của câu hỏi này. Lấy thí dụ, để nghiên cứu các quan hệ liên tộc người, ta có thể chọn nghiên cứu ở các trường công lập vì đó là nơi có sự chung sống giữa các nhóm tộc người; tiếp theo, trong nội bộ trường, ta có thể tập trung nghiên cứu thanh thiếu niên vì các em đang ở độ tuổi quan trọng có liên quan đến việc hình thành căn tính xã hội. Tóm lại việc chọn một tình huống, một nhóm nghiên cứu tùy thuộc khả năng chúng làm sáng tỏ hiện tượng ta muốn nghiên cứu. Mẫu nghiên cứu khởi đầu này có thể thay đổi tùy theo nhu cầu trong quá trình phát triển lý thuyết. Đại bộ phận nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp này dựa trên những dữ kiện thực địa như quan sát, phỏng vấn, nhưng cũng có thể sử dụng các loại dữ kiện khác như dữ kiện định lượng, tư liệu các loại, hình ảnh và ngay cả các phân tích dữ kiện thực địa đã được thực hiện nếu chúng có thể cho phép xây dựng hệ thống một lý thuyết có thể kiểm chứng được. 2.3. Xây dựng các chủ đề khái niệm (conceptual categories) Mục tiêu chính của lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa là xây dựng lý thuyết và đơn vị căn bản phân tích của phương pháp này là các khái niệm. Khái niệm không phải là sự kiện hay biến cố (các tác giả Glaser và Strauss dùng thuật ngữ incidents) mà là cái biểu trưng cho các sự kiện, biến cố này. Thí dụ trong nghiên cứu của Laperrière về quan hệ liên tộc người, một vài sự kiện cho thấy các thanh niên Ý ở Québec đã Pháp hóa tên của mình, từ bỏ những nét truyền thống Ý rõ ràng. Các sự kiện này được xếp vào khái niệm “phủ định sự khác biệt” (Laperrière, 1997). Thí dụ khác, trong nghiên cứu của Glaser và Strauss đã nêu trên, những nhận định đánh giá về cái chết của bệnh nhân như “anh ta trẻ quá”, “Nếu không có cô, các con của cô sẽ làm gì đây?”, “Thật là một mất mát cho xã hội!”, được liệt kê vào khái niệm “mất mát xã hội”. Tiếp theo, những khái niệm thuộc về NGUYEÃN XUAÂN NGHÓA – LYÙ THUYEÁT ÑAËT CÔ SÔÛ TREÂN DÖÕ KIEÄN 12 cùng một lãnh vực được tập hợp lại trong một chủ đề khái niệm (hay khái niệm chính). Trở lại nghiên cứu của Lapenière, các khái niệm “phủ định sự khác biệt”, và khái niệm “tâm lý hóa sự khác biệt” (qui chiếu việc chọn bạn thân cùng một tộc người là do tính cách của cá nhân) được tập hợp lại trong chủ đề khái niệm “che giấu sự khác biệt”. Các chủ đề khái niệm phải bám vào thực tiễn nghiên cứu, vì phương pháp này còn được gọi là phương pháp lập thuyết từ những dữ kiện thực địa (ancrer la théorie dans les faits, neo lý thuyết vào các sự kiện). Từ các quan sát càng lúc càng được tinh tế do được đối chiếu liên tục, người ta làm rõ các chủ đề và giả thiết. Các dữ kiện không chỉ là chỉ báo của các khái niệm hay các chủ đề mà còn là công cụ để xác minh. Các chủ đề khái niệm được xây dựng lại cho đến khi nào không có dữ kiện mới đi ngược lại chúng - đây là nguyên tắc bão hòa (saturation) (Glaser, Strauss, 1967, tr. 61). Trở lại khái niệm “mất mát xã hội” trong nghiên cứu của Glaser và Strauss, khái niệm này tạo nên một chiều kích thích hợp cho việc quan sát hiện tượng nghiên cứu là các hành vi chăm sóc của bác sĩ, y tá và đồng thời nó cũng cho phép đưa ra các tiên đoán về chất lượng các chăm sóc. Sau khi đã xác định các chủ đề khái niệm, người nghiên cứu cố gắng đưa ra các thuộc tính, các đặc điểm của các chủ đề khái niệm. Động tác này đi qua hai bước nhỏ; bước thứ nhất, ta tối thiểu hóa các khác biệt quan sát được nhằm chi tiết hóa và củng cố nội dung các chủ đề khái niệm; bước thứ hai, tối đa hóa những khác biệt này với mục đích làm bật ra những điều kiện xuất hiện và biến đổi của hiện tượng nghiên cứu. Lấy thí dụ, người ta có thể chi tiết hóa nội dung của khái niệm “che giấu sự khác biệt tộc người” nêu trên và xem những ai (khi nào, thế nào, với ai, tại sao, kết quả thế nào) sử dụng chiến lược này (Strauss, Corbin, 1990, tr. 77). Sau đó liệt kê ra những đặc điểm của khái niệm đối nghịch “phô trương sự khác biệt tộc người” và so sánh hai tập hợp khái niệm để đi đến việc nhận ra những điều kiện xuất hiện của chiến lược này hay chiến lược kia. Sau đó, những đặc điểm của một chủ đề khái niệm được xem xét dưới những chiều kích của chúng. Trong ngôn ngữ của phương pháp này, khái niệm chiều kích chỉ việc định vị các đặc điểm trên một trục liên tục, thí dụ, trong tương quan với số lượng: ít/nhiều, trong tương quan với thời gian: sớm/trễ... Thí dụ, khái niệm “mất mát cho xã hội” được xét dưới chiều kích nhiều hay ít. Cuối cùng, qua việc quan sát tất cả các chiều kích của một khái niệm, ta có thể có cái nhìn tổng thể (dimensional profile) để từ đó tạo ra các loại hình hay khuôn mẫu (pattern) của hiện tượng nghiên cứu. 2.4. Quá trình mã hóa và các giai đoạn của phân tích đối chiếu liên tục Phương pháp đối chiếu là một trọng tâm của lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa, nhằm làm bật ra những tương đồng, dị biệt giữa các dữ kiện hòng xác định được những đặc điểm, những quan hệ, các yếu tố chi phối các biến đổi (Glaser, Strauss, 1967, tr. 103-107). Sau khi việc thâu thập dữ kiện thực địa đầu tiên được thực hiện, việc mã hóa mở (open coding) được tiến hành ngay. Mã hóa mở NGUYEÃN XUAÂN NGHÓA – LYÙ THUYEÁT ÑAËT CÔ SÔÛ TREÂN DÖÕ KIEÄN 13 được hiểu là tất cả sự kiện, tất cả đơn vị nghĩa đều được mã hóa. Chỉ khi cuộc nghiên cứu đã khá tiến triển, lý thuyết bắt đầu rõ dần, mới thực hiện việc mã hóa chọn lọc (selective coding), có nghĩa là mã hóa được hội nhập vào những chủ đề chính của lý thuyết. Việc mã hóa dữ kiện luôn kèm theo các suy nghĩ lý thuyết, được thực hiện dưới các dạng ghi nhớ (memos). Các khái niệm ban đầu được đưa ra có thể bị thay đổi, bỏ đi nếu các dữ kiện mới đòi hỏi như vậy. Tính nhất quán lý thuyết không có nghĩa là sự cứng nhắc của các khái niệm chủ đề mà phải thích ứng với toàn bộ dữ kiện. Khi một sự kiện mới được quan sát không đòi hỏi phải xây dựng lại các khái niệm và các chủ đề, là đã đạt đến sự bão hòa. Việc mã hóa đi qua ba giai đoạn, nhưng quá trình này không đơn tuyến: a) Mã hóa mở (open coding) nhằm làm bật lên từ các dữ kiện càng nhiều khái niệm càng tốt. Một mã có thể thích ứng cho nhiều dữ kiện, nhưng một dữ kiện có thể qui chiếu về nhiều mã. Thí dụ, việc Việt hóa tên của các thanh niên dân tộc có thể đưa vào mã “che giấu sự khác biệt tộc người”, cũng có thể thuộc mã “đồng hóa văn hoá” hay mã “tương quan quyền lực giữa các nhóm tộc người”. Việc mã hóa mở được tiếp tục bằng cách nêu lên những đặc điểm, chiều kích của các khái niệm. Việc cụ thể hóa các khái niệm, các chủ đề phân tích được thực hiện bằng cách so sánh các sự kiện, các tình huống, các nhóm trên thực địa. Lấy thí dụ, trước tiên ta tập hợp tất cả các khái niệm liên quan đến thái độ của các cô y tá liên quan đến trạng thái của những người đang hấp hối, tiếp theo ta xem xét các thái độ trên theo các loại người đang hấp hối và cuối cùng so sánh những người đang hấp hối với những người cũng đang tình trạng chuyển tiếp như các cặp vợ chồng đang sửa soạn ly hôn. Một thí dụ khác, ta xem cách biểu hiện của việc từ chối khác biệt theo cách người đó là dân tộc ít người hay dân tộc đa số, việc này xảy ra nơi công cộng hay chỗ riêng tư và sau đó so sánh với các mối quan hệ khác như chủng tộc, giai cấp, giới tính. b) Trong giai đoạn hai, ta cố gắng thiết lập các tương quan giữa các chủ đề đã làm bật ra: đó là điều mà Strauss gọi là mã hóa theo trục (axial coding). Để dễ giới hạn lý thuyết, Strauss (1987) đã đưa ra một mô hình gồm các chiều kích chính của một chủ đề: các yếu tố bối cảnh, các nguyên nhân, những điều kiện cấu trúc, hành động và tương tác, hậu quả... Mô hình mã hóa trước hết là một công cụ và dĩ nhiên những đặc điểm của một trật tự khác, một mô hình khác cũng có thể được thiết lập ra, thí dụ những đặc điểm liên quan đến những thái độ, chuẩn mực, hệ tư tưởng bao quanh vấn đề. Cái quan trọng là thấy được tương quan giữa các khái niệm chính nhằm hội nhập chúng vào và đẩy xa việc tạo lý thuyết. Người nghiên cứu hình thành các giả thiết trên những dữ kiện còn thiếu của mô hình và sau đó sẽ kiểm chứng trên thực địa. Trong giai đoạn mã hóa này, ta sử dụng nhiều memos lý thuyết và sử dụng nhiều sơ đồ. c) Giai đoạn cuối là mã hóa chọn lọc (selective codification) nhắm đến việc hội nhập cuối cùng của lý thuyết trong quan hệ với khái niệm chính và đi vào trọng tâm của vấn đề và tổng hợp thành vài hàng. Cái NGUYEÃN XUAÂN NGHÓA – LYÙ THUYEÁT ÑAËT CÔ SÔÛ TREÂN DÖÕ KIEÄN 14 khái niệm chính này cho phép hội nhập tối đa các dữ kiện. Giai đoạn mã hóa chọn lọc này cho phép đi đến việc hình dung ra các khuôn mẫu (patterns) có thể bao trùm các tập hợp nhỏ các dữ kiện, giúp việc đi đến việc loại hình hóa (typologies). Một khi đã xác định khái niệm lý thuyết chính của cuộc nghiên cứu phải cụ thể hóa ra bằng các đặc điểm và chiều cạnh, sau đó đặt khái niệm này trong tương quan với các khái niệm khác. Mô hình lý thuyết mới này đến phiên nó lại được kiểm chứng, bổ sung bởi những dữ kiện mới (Strauss và Corbin, 117-118). 2.5. Việc chọn mẫu theo yêu cầu lý thuyết (theoretical sampling) Theo lý thuyết này việc chọn mẫu tùy thuộc các phân tích đang xảy ra trên thực địa. Việc chọn lựa tình huống nào, nhóm đối tượng nào là tùy thuộc chúng có thích hợp không với việc xây dựng các khái niệm chính và tương quan giữa những khái niệm này, chứ không nhằm mục tiêu tiêu biểu cho tổng thể nghiên cứu hay các tình huống nghiên cứu (Glaser, Strauss, 1967, tr. 45-65). Mẫu lý thuyết đầu tiên được xác định là do câu hỏi nghiên cứu. Sau đó việc chọn mẫu thay đổi tùy theo yêu cầu phân tích. Việc chọn mẫu vừa phải linh động, vừa tuân thủ các nguyên tắc: nhất quán, linh động, rõ ràng và đầy đủ. Chọn lựa những nhóm để so sánh Việc chọn các nhóm so sánh là để làm rõ các khái niệm chính và kiểm chứng các giả thiết. Các nhóm so sánh là các nhóm có thực hay được xây dựng bằng lý thuyết, từ các dữ kiện sơ cấp cũng như từ các nghiên cứu đã có. Việc chọn mẫu theo lý thuyết này thay đổi tùy theo quy mô của lý thuyết mà ta muốn xây dựng: có thể có lý thuyết cụ thể hay lý thuyết tổng quát. Các lý thuyết cụ thể xuất phát từ việc so sánh các nhóm cùng loại (thí dụ các nhóm tộc người khác nhau). Lý thuyết hình thức (hay tổng quát) được xây dựng từ các loại hình nhóm khác nhau (thí dụ theo chủng tộc, giai cấp xã hội hay giới tính), hay các môi trường khác nhau ở trường học, ở cộng đồng), ở không gian riêng tư hay công cộng. Một thí dụ trong nghiên cứu của Strauss và Corbin (1990): việc xây dựng một lý thuyết về nguy cơ của các phụ nữ đang mang thai bằng cách so sánh các nhóm phụ nữ đang mang thai với việc xây dựng một lý thuyết hình thức về nguy cơ tổng quát bằng cách so sánh trường hợp vừa kể với những nguy cơ của lính cứu hỏa, của công nhân xây dựng để xác định trong mỗi trường hợp đâu là tính chất và cách xử lý các nguy cơ. Các giai đoạn của việc chọn mẫu theo lý thuyết Nói chung, các giai đoạn của việc chọn mẫu cũng tương tự các giai đoạn mã hoá: mã hóa mở, mã hóa theo trục và mã hóa chọn lựa. Việc thâu thập dữ kiện được thực hiện cho đến khi bão hòa, nghĩa là cho đến khi không còn dữ kiện có thể thay đổi lý thuyết đã xây dựng. Đối với lý thuyết này, số lượng của mẫu không quan trọng. Có khi một trường hợp bên lề hay độc nhất có tầm quan trọng trung tâm nếu nó cho thấy một khía cạnh cốt yếu của hiện tượng. Chúng ta có thể tóm tắt lý thuyết đặt cơ sở trên dữ kiện thực địa qua 10 điểm quan trọng sau đây (Strauss, Corbin, 1990, tr. 6-12): NGUYEÃN XUAÂN NGHÓA – LYÙ THUYEÁT ÑAËT CÔ SÔÛ TREÂN DÖÕ KIEÄN 15 1. Việc thâu thập và phân tích dữ kiện là những quá trình có liên quan với nhau. 2. Các khái niệm là các đơn vị cơ bản của phân tích. 3
Tài liệu liên quan