Như chúng ta đã biết xung đột ở Trung đông là một trong những điểm nóng hiện nay đã và đang được báo chí quốc tế đề cập đến rất nhiều, không riêng gì báo chí quốc tế mà ngay tại Việt Nam thì những thông tin về diễn biến hoà bình tại Trung Đông cũng luôn là một đề tài nóng hổi, bất kì những diễn biết dù nhỏ nhất cũng được báo chí trong nước đăng tải, tin tức thường được lấy từ các hãng thông tấn có uy tín trên thế giới như Reuter, AP, BBC Điều đó cho thấy với bất cứ một sự kiện nào nổi bật thì báo chí luôn là phương tiện hữu hiệu để phản ánh, và qua đó các độc giả có thể nắm bắt một cách cập nhật các thông tin, đồng thời có cái nhìn sâu hơn về một vấn đề thông qua các bài phân tích bình luận cũng được đăng tải trên các báo.
- Qua việc báo chí trong và ngoài nước phản ánh về vấn đề Trung đông chúng ta có thể thấy tính phức tạp của tình hình qua mối quan hệ giữa nhà nước Do Thái và các quốc gia ả Rập, mối quan hệ giữa những nhà cầm quyền, sự can thiệp của các nước lớn Đặc biệt qua nghiên cứu vấn đề Trung Đông chúng ta có thể hiểu được chính sách bá quyền của Mĩ với những đặc quyền, đặc lợi của nó không dễ gì từ bỏ đối với vùng đất Trung đông màu mỡ này. Mặt khác, qua việc phản ánh đó chúng ta cũng thấy được nguyện vọng hòa bình của các dân tộc ở phương Đông nói chung cũng như những người dân ở Palestine nói riêng.
31 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1785 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mâu thuẫn bất hòa giữa nhà nước Do Thái và Palestine qua thái độ của Thủ tướng thông qua sự phản ánh của báo chí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáy chuyên ngành Thông tin - Văn hoá quốc tế nói riêng và Khoa quan hệ Quốc tế nói chung đã tận tình giảng dạy - truyền đạt, rèn luyện và bồi dưỡng tri thức cho em trong quá trình học tập tại trường Đại học Dân lập Đông Đô.
Đặc biệt em gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc nhất tới cán bộ hướng dẫn thầy Từ Sơn, người trực tiếp tận tình giúp đỡ em hoàn thành tiểu luận thực tập này.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Như chúng ta đã biết xung đột ở Trung đông là một trong những điểm nóng hiện nay đã và đang được báo chí quốc tế đề cập đến rất nhiều, không riêng gì báo chí quốc tế mà ngay tại Việt Nam thì những thông tin về diễn biến hoà bình tại Trung Đông cũng luôn là một đề tài nóng hổi, bất kì những diễn biết dù nhỏ nhất cũng được báo chí trong nước đăng tải, tin tức thường được lấy từ các hãng thông tấn có uy tín trên thế giới như Reuter, AP, BBC… Điều đó cho thấy với bất cứ một sự kiện nào nổi bật thì báo chí luôn là phương tiện hữu hiệu để phản ánh, và qua đó các độc giả có thể nắm bắt một cách cập nhật các thông tin, đồng thời có cái nhìn sâu hơn về một vấn đề thông qua các bài phân tích bình luận cũng được đăng tải trên các báo.
- Qua việc báo chí trong và ngoài nước phản ánh về vấn đề Trung đông chúng ta có thể thấy tính phức tạp của tình hình qua mối quan hệ giữa nhà nước Do Thái và các quốc gia ả Rập, mối quan hệ giữa những nhà cầm quyền, sự can thiệp của các nước lớn… Đặc biệt qua nghiên cứu vấn đề Trung Đông chúng ta có thể hiểu được chính sách bá quyền của Mĩ với những đặc quyền, đặc lợi của nó không dễ gì từ bỏ đối với vùng đất Trung đông màu mỡ này. Mặt khác, qua việc phản ánh đó chúng ta cũng thấy được nguyện vọng hòa bình của các dân tộc ở phương Đông nói chung cũng như những người dân ở Palestine nói riêng.
2. Đối tượng nghiên cứu
Trung Đông là vùng đất bấn ổn và luôn xảy ra những xung đột, tình hình bất ổn và xung đột được báo chí phản ánh rất nhiều trong giai đoạn hiện nay. Để có cái nhìn bao quát và sâu sắc hơn em chọn đề tài: "Tìm hiểu và quan điểm bất hòa của Thủ tướng A.Sharôn và Tổng thống YArafát"
3. Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài hấp dẫn nó có tác động rất lớn trong quan hệ quốc tế. Chính vì vậy mà được báo chí Việt Nam và nước ngoài rất chú trọng quan tâm. Tuy nhiên trong khuôn khổ có hạn của một tiểu luận em không thể tiến hành khảo sát trên tất cả các tờ báo mà chỉ khảo sát trên một số tờ báo quen thuộc sau: "Báo Nhân dân, báo Hà Nội" mới tuần "báo quốc tế", "tạp chí Cộng sản", "báo điện tử" từ năm 2001-2002.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cách thức tiến hành nghiên cứu tiểu luận thực tập tốt nghiệp chủ yếu là sưu tầm, khảo sát, thống kê, so sánh phân loại, phân tích tổng hợp để xác lập tiểu luận, luận cứ làm nổi bật đặc trưng của từng tờ báo trong việc thông tin về "Quan điểm bất hòa giữa Thủ tướng A.Sharôn và Tổng thống YArafát" trong thời gian từ 2001 đến nay.
5. Mục đích nghiên cứu
Thông qua đề tài: "Quan điểm bất hòa giữa Thủ tướng A.Sharôn và Tổng thống YArafát". Em muốn đi sâu tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm quý báu của các thế hệ nhà báo đi trước đồng thời nghiên cứu về mặt nội dung, hình thức thể hiện của báo chí Việt Nam, những ưu, nhược điểm trong việc chuyển tải thông tin về vấn đề này. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa về chất lượng báo chí.
6. Kết cấu của tiểu luận
CHƯƠNG MỘT
MỐI MÂU THUẪN BẤT HÒA GIỮA NHÀ NƯỚC DO THÁI VÀ PALESTINE QUA THÁI ĐỘ CỦA THỦ TƯỚNG A.SHARON VÀ TỔNG THỐNG Y. ARAFAT THÔNG QUA SỰ PHẢN ÁNH CỦA BÁO CHÍ
I. LỊCH SỬ TỔNG QUAN VỀ SỰ XUNG ĐỘT GIỮA NHÀ NƯỚC DO THÁI VÀ CHÍNH QUYỀN PALESTINE
1. Lịch sử vấn đề
Từ lâu trong kinh Coran của đạo Hồi và trong kinh thánh của đạo Cơ đốc đều coi Jerusalem là thánh địa của mình. Khi người Ba Tư, Makêđôn, La Mã xâm nhập, Palestine trở thành mảnh đất bị nhiều nước xâu xé. Rốt cuộc, người Arập chiếm đất Palestine còn người Do Thái trở thành một dân tộc lang thang không có quốc gia. Cuối thế kỷ 19, người Do Thái có ý đính phục quốc, về sau phát triển thành chủ nghĩa phục quốc. Chính điều đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng xung đột như hiện nay, mà thực chất là cuộc chiến tranh giành đất vì những giáo lý trong các bộ kinh của người Arập cũng như người Do Thái.
2. Các cuộc chiến tranh ở Trung Đông
Từ lâu trong lịch sử với vị thế địa – chiến lược quan trọng và rất nhạy cảm, lại tiềm ẩn những mâu thuẫn sắc tộc hoà quyện với tôn giáo, Trung Đông luôn vần vũ trong những biến cố nóng bỏng của các cuộc giành giật quyền lực quyết liệt giữa các thế lực ở bên trong và bên ngoài khu vực. Bước vào thời hiện đại, cùng với những mâu thuẫn mang tính lịch sử, nguồn tài nguyên dầu lửa khổng lồ của khu vực với trữ lượng ước khoảng 90 tỉ tấn (tổng trữ lượng dầu lửa của toàn thế giới là 136 tỉ tấn) không chỉ một lần trở thành vũ khí lợi hại của các nước Ả-rập ở đây trong quan hệ quốc tế. Mà còn đồng thời đưa Trung Đông vào tâm điểm của không ít những toan tính chiến lược địa – chính trị của các thế lực nước lớn tham vọng giành quyền lực toàn cầu. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất làm bùng lên cuộc chiến tranh khu vực trong thời kỳ chiến tranh lạnh, giữa một bên là các nước Ả-rập và bên kia là I-xra-en, sau khi nhà nước Do Thái được thành lập vào tháng 5-1948 theo Nghị quyết 181 của Liên hợp quốc.
2.1. Cuộc chiến giành độc lập của người Do Thái năm 1948
Theo Nghị quyết 181 (II) của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 29-11-1947 chia vùng đất Pa-le-xtin thành hai nhà nước: nhà nước của người Do Thái và nhà nước của người Ả-rập. Sự chia tách này đã gây ra những xáo trộn nhất định về di dân: người Ả-rập dời về vùng đất Pa-le-xtin và người Do Thái từ các nước châu Âu trở về quốc gia Do Thái mới. Mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, chủ quyền giữa người Ả-rập và người Do Thái cũng phát sinh từ đó. Ngay sau khi quốc gia mới I-xra-en được thành lập (14-5-1948), cuộc chiến tranh Ả-rập - I-xra-en (1948-1949) bùng nổ. Trong cuộc chiến này, I-xra-en đã chiếm thêm nhiều vùng đất Pa-le-xtin. Năm 1949, lần lượt các hiệp định đình chiến giữa các nước Ai Cập, Xi-ri, Li-băng, Gióoc-đa-ni và I-xra-en đã được kí kết, theo đó, đường biên giới lãnh thổ ấn định theo đường mà quân đội I-xra-en chiếm đóng. Thành phố cổ Giê-ru-xa-lem vốn được đặt dưới sự quản lý của Liên hợp quốc theo Nghị quyết 181 (II), đã bị chia đôi: phần phía đông thuộc về Gióoc-đa-ni, phần tây thuộc về I-xra-en. Khu Ga-za và bờ Tây sông Gióoc-đan của người Ả-rập Pa-le-xtin cuối cùng lại bị nhập vào Gióoc-đa-ni. Người Pa-le-xtin thực sự không có chỗ nương thân. Gần 1 triệu người Ả-rập phải sống lưu vong "Trung Đông hòa bình trắc trở" (tạp chí Cộng sản số 536 ngày 2/1/1998).
2.2. Cuộc chiến kênh đào Su- ê năm 1956
Năm 1956, 3 trong số những đặc điểm chi phối quan hệ quốc tế thế kỉ 20 tập trung trong một cuộc đụng độ ngắn ở Trung Đông: chủ nghĩa quốc gia, chiến tranh lạnh và mối hằn thù Ả-rập-I-xra-en. Xung đột được khơi nguồn từ quyết định quốc hữu hoá kênh đào Suez của Tổng thống Ai- cập G.Abdel-Nasser, tháng 7/1956.
Suez dài trên 150 km, nối liền Địa Trung Hải và Hồng Hải, là con đường biển quan trọng đặc biệt về mặt giao thương và cả về quân sự. Anh và Pháp, hai cổ đông lớn trong công ty xây dựng kênh đào, chịu thiệt thòi nhiều nhất khi Ai Cập giành lại quyền kiểm soát Suez. Một kế hoạch can thiệp lật đổ tổng thống Nasser lập tức được vạch ra. Tel Aviv, tình định của Cairo cũng được kéo vao cuộc. I-xra-en có nhiều lí do để tham gia cuộc chiến 1956. Những năm đầu thập kỷ 50, quan hệ giữa quốc gia Do Thái và các láng giềng A-rập càng ngày càng căng thẳng. Sau khi I-xra-en lập quốc, hơn 900.000 người tị nạn đã tập trung ở biên giới của nước này, đòi quyền đối với vùng đất Pa-le-xtin. Đây chính là cơ sở hình thành các nhóm du kích Hồi giáo. Những hoạt động nổi dậy khiến người I-xra-en không có lúc nào được yên ổn. Quan hệ giữa quốc gia Do Thái và các nước láng giềng Gióoc-đa-ni, Ai Cập, đặc biệt là Si-ri, mỗi lúc một tồi tệ hơn. Chạy đua vũ trang bắt đầu ở Trung Đông với việc khối A-rập ra sức mua quân bị từ Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa, và I-xra-en không ngừng nhận viện trợ quân sự của Mỹ.
Năm 1956, cùng với việc quốc hữu hoá kênh đảo, tổng thống Nasser còn lệnh cho hải quân phong toả eo Tiran – con đường thông ra Hồng Hải duy nhất của I-xra-en. Mặt khác, một lực lượng lớn quân đội Ai Cập cũng đồn trú trên bán đào Si-nai, ngay sát nách quốc gia Do Thái. Với I-xra-en, căn cứ quân sự này như cây giáo thỉnh thoảng lại thúc vào mạng sườn họ đau điếng, và Tel Aviv rất mong có cơ hội đập tan nó. Cơ hội đó đến cùng với kế hoạch uy hiếp Cai-rô do Luân đôn chủ xướng.
Ngày 29/10/1956, I-xra-en bất ngờ tấn công quân Ai Cập trên khắp các mặt trận. Sau 5 ngày, quân Do Thái đã chiếm gần hết bán đảo Si-nai, dải Ga-za và các mục tiêu khác. Pháp và Anh cũng nhảy vào can thiệp. Cả Liên Xô và Mỹ đều ra sức gây sức ép để buộc chiến sự ngừng lại. Trước sức ép của Washington, Luân đôn và Pa-ri đành chịu thúc thủ. Mỹ cũng buộc Tel Aviv trả lại dải Ga-da cho Ai Cập. Đồng thời, lực lượng khẩn cấp của Liên Hợp Quốc được gửi tới để đảm bảo hoà bình.
Cuộc xung đột kênh đào Suez năm 1956 là một thời điểm bản lề ở Trung Đông, nó đánh dấu sự suy giảm ảnh hưởng trong khu vực của hai nước Anh và Pháp, đồng thời bồi thêm cú đấm mạnh vào hy vọng vốn đã xa vời cho một giải pháp hoà bình ở Trung Đông. Mối hằn thù A-rập-I-xra-en càng thêm sâu sắc. Chủ nghĩa quốc gia cũng có cơ hội lan mạnh trên toàn khu vực. Sau xung đột , Ai Cập trở nên thân thiết với Liên Xô hơn. Vai trò to lớn của Mỹ cũng được thừa nhận lần đâu tiên. Điều này tạo cơ sở cho học thuyết Ai-xen-hao, trong đó Nhà trắng quyết tâm trợ giúp bất kỳ nước Trung Đông nào “bị cộng sản đe doạ”. (báo điện tử nguồn http\\www vnepress.net).
2.3. Cuộc chiến sáu ngày
8h sáng ngày 5/6/1967, hầu như toàn bộ máy bay thuộc không lực I-xra-en nhất loạt cất cánh, hướng về các phi trương của Ai Cập. Chỉ trong vòng 80 phút, 4 sân bay và một loạt căn cứ không quân trên bờ tây kênh đào Suez đã bị san phẳng. Sự kiện đó mở đầu cho kỳ tích 6 ngày của I-xra-en. Trong 6 ngày quân Do Thái đã làm cỏ bán đảo Si-nai(Ai Cập), chiếm dải Ga-da, khu bờ Tây sông Gióoc-đan, trong đó có thành cổ Giê-ru-xa-lem, cao nguyên Gô-lan. Chiến dịch phòng ngừa chớp nhoáng (pre-emptive action) của I-xra-en kết thúc thắng lợi.
Trên thực tế, Tel Aviv đã đi một nước cờ mạo hiểm khi chủ động tấn công các láng giềng Ả-rập. Làm như vậy, I-xra-en sẽ mang tiếng gây hấn trước, phải một lục thọ địch ở cả 3 phía (sau lưng là biển) – chống lại liên minh Ai Cập, Gióoc-đa-ni và Si-ri. Mặt khác I-xra-en đứng trước nguy cơ bị cô lập hoàn toàn nếu khiêu chiến. Liên Xô và các nước thuộc khối cộng sản đã hứa đứng về phe A-rập. Mỹ thì đang mắc kẹt ở Việt Nam nên không muốn can thiệp vào Trung Đông. Tuy nhiên, rút cục thì Mỹ và Nga đều không muốn can thiệp vào chảo lửa Trung Đông. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến dịch quân sự năm 1968 của I-xra-en.
Sau năm 1967, uy tín của Liên Xô giảm ở Trung Đông do nước này không can thiệp để cứu Ai Cập. Còn Mỹ và phương Tây giành thắng lợi lớn về tinh thần. Một loạt các nước A-rập quyết định ngả hẳn sang phe Washington (tiêu biểu la Gióoc-đa-ni) (Báo điện tử http\\www vnepress.net).
2.4. Cuộc chiến Yom Kipur năm 1973
Chiều 6/10/1973, Liên quân A-rập đẫ bất ngờ tấn công I-xra-en vào đúng ngày lễ Sám hối (Yom Kippur) của người Do Thái. Do bị bất ngờ nên I-xra-en bị dồn vào ngõ cụt, vận mệnh của quốc gia Do Thái này như ngàn cân treo sợi tóc. Trong hai ngày đầu, I-xra-en thua liểng xiểng. Quân Syria chiếm được cao nguyên Golan và đánh thẳng vào những khu vực đông dân cư Do Thái gần biên giới. Trên biển, Damascus cũng làm Tel Aviv bất ngờ bằng đội tàu phóng tên lửa do Nga trang bị. Quân Syria tiến nhanh tới biển Galilee, uy hiếp các khu định cư miền bắc, gây nên một nỗi hoảng loạn mà dân chúng I-xra-en không bao giờ quên được. Tối mồng 7/10, gió bắt đầu đổi chiều ở phía bắc. Quân Do Thái xốc lại đội hình và tổ chức phản công, đánh bật lực lượng Syria khỏi cao nguyên Golan. Những ngày sau đó, I-xra-en tiến không ngừng tới sát Damascus, thủ đô nước láng giềng.
Xung đột ở biên giới phía nam kéo dài hơn. Phải tới giữa tháng 10, Tel Aviv mới giành lại được thế thượng phong. Lính của tướng Moshe Dayan đốt sạch thiết giáp của đối phương, vượt kênh, chặn đường tiếp tế của quân Ai Cập. Cairo bị dồn vào chân tường.
Liên Xô và Mỹ vội vàng can thiệp. Hai nước lớn lập cầu hàng không tiếp viện cho “gà nhà”. Mat-xcơ-va đe doạ sẽ gửi quân tới Trung Đông. Oa-sinh-tơn, muốn giữ thế hoà hoãn với khối XHCN, gây sức ép buộc Tel Aviv dừng tay. Hội đồng Bảo an LHQ ra Nghị quyết 338 yêu cầu các bên lập tức ngừng xung đột. Tổng kết lại, I-xra-en bị thua thiệt nhiều. Sau chiến tranh nội bộ Tel Aviv bị xáo trộn. Phe Ả-rập được một dịp “khoe” sức mạnh. Qua xung đột Ai Cập giành lại một phần bán đảo Si-nai. Còn Si-ri đòi được một góc cao nguyên Gô-lan. Liên Xô và Mỹ cũng có cơ hội chứng tỏ ảnh hưởng của mình trong vùng. Có lẽ một trong những hệ quả quan trọng nhất của chiến tranh 1973 là việc các nước A-rập tìm ra một vũ khí mới để gây sức ép với phương Tây. Việc cấm vận dầu mỏ đối với các nước ủng hộ I-xra-en kéo dài suốt từ tháng 10/1973 tới tháng 3/1974 đã khiến phe Mỹ gặp nhiều khó khăn.
2.5. Cuộc chiến 1982
Năm 1982, trong cuộc chiến tranh lần thứ 5, I-xra-en tấn công Li-băng và chiếm Nam Li-băng. Vùng Nam Li-băng bị chiếm đóng từ đó và trở thành “vùng an ninh” hay còn gọi là “vùng đệm tự tuyên bố” của I-xra-en.
3. Thực trạng hiện nay
Như vậy, từ một đất nước với diện tích ban đầu là 14.100 km2, sau 5 thập niên chiến tranh và xung đột, I-xra-en đã chiếm thêm gấp nhiều lần diện tích của họ. Riêng cuộc chiến 1967, I-xra-en chiếm được 6,5 vạn km2. Cho đến nay, I-xra-en mới chỉ trả lại vùng bán đảo Si-nai cho Ai Cập; trao quyền tự trị tạm thời cho người Pa-le-xtin ở dải Ga-da và thành phố Giê-ri-cô ở bờ Tây sông Gióoc-đan (Hiệp định Ô-xlô I, 1993); từng bước rút quân và chuyển giao 80% thành phố Hê-brôn (thành phố cuối cùng trong bảy thành phố ở bờ Tây sông Gióoc-đan) cho chính quyền tự trị Pa-le-xtin (Hiệp định Ô-xlô II, 1997). Trong khi đó các vấn đề gây bất đồng sâu sắc như về quy chế thành phố Giê-ru-xa-lem, về chủ quyền cao nguyên Gô-lan, về tiến độ rút quân I-xra-en tại bờ Tây sông Gióoc-đan… vẫn còn tồn tại. (tạp chí Cộng sản ngày 2/1/1998).
Thực chất và cốt lõi nhất của cuộc xung đột giữa các nước ả-rập và I-xra-en là vấn đề Pa-le-xtin cùng những tranh chấp lãnh thổ giữa hai bên. Cuộc xung đột khu vực kéo dài do nhiều mâu thuẫn đan xen đã biến Trung Đông trở thành một điểm nóng gay gắt khó tháo gỡ, vượt tầm khu vực, khiến cả cộng đồng quốc tế phải quan tâm và lo ngại. Được sự hậu thuẫn, dung túng của Mỹ, nên dù bị cô lập giữa thế giới A-rập rộng lớn, đông dân, nhiều tiền của, nhưng I-xra-en vẫn luôn ở thế lấn át, thường sử dụng vũ lực gây hấn chiếm thêm đất đai của người Pa-le-xtin và của các nước A-rập láng giềng. Tĩnh cố kết lỏng lẻo và sự hạn chế của khối đoàn kết A-rập cũng phần nào làm gia tăng hành động hiếu chiến của một số thế lực cực hữu I-xra-en. Tuy nhiên, khi chiến tranh lạnh kết thúc, cuộc đối đầu toàn cầu Mỹ-Xô bị triệt tiêu, thì cũng là lúc cục diện ở Trung Đông thay đổi sâu sắc, cơ bản. Mỹ điều chỉnh chính sách đối với khu vực nhằm phục vụ chiến lược toàn cầu của họ sau chiến tranh lạnh. Thay vì chỉ chú trọng I-xra-en, Mỹ cải thiện quan hệ với thế giới A-rập, hoà hoãn mâu thuẫn giữa các nước A-rập với I-xra-en, tìm kiếm giải pháp cho cuộc xung đột ở Trung Đông theo kịch bản của Mỹ. Mặt khác, các nước A-rập cũng muốn cải thiện quan hệ với Mỹ xuất phát từ tính toán riêng của mỗi nước. I-xra-en cũng không thể thờ ơ với việc củng cố quan hệ với Mỹ, khi vị trí của I-xra-en là đồng minh chiến lước duy nhất của Mỹ tại khu vực đang lung lay. Trong khung cảnh ấy, xuất hiện những tiền đề thực tế cho việc vãn hồi hoà bình Trung Đông sau gần nửa thế kỹ liên miên xung đột. Tuy nhiên, những mâu thuẫn, bất đồng sâu sắc trong quá trình thực hiện các thoả thuận, khiến hồ sơ Trung Đông vẫn còn nổi cộm và bế tắc trên nhiều vấn đề, như biên giới – lãnh thổ, các vùng “đất Thánh”, các khu định cư của người Do Thái, quy chế sử dụng Giê-ru-xa-lem, hồi hương người tị nạn và nhà nước Pa-le-xtin… (tạp chí Cộng sản 3/2002).
4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề hoà bình ở Trung Đông
Trong văn kiện Đại hội Đảng IX về đường lối đối ngoại có nêu
- Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. ủng hộ và cùng nhân dân thế giới đấu tranh bảo vệ hoà bình chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang; góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ công bằng.
- Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các Đảng cộng sản và công nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, với các phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới.
Về tình hình xung đột mới ở Trung Đông, phát ngôn viên Bộ ngoại giao Việt nam Bà Phan Thuý Thanh ngày…..nêu: “ Việt nam cực lực lên án hành động xâm lược của chính quyền I-xra-en đối Pa-le-xtin….việc sử dụng vũ lực chỉ làm cho tình hình trở nên xấu hơn. Việt Nam kêu gọi các bên hữu quan từ bỏ vũ lực, quay trở lại bàn đàm phán dựa trên những Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, đăc biệt là nghị quyết 242 và 338, và dựa trên kế hoạch “đổi đất lấy hoà bình”.
II. Báo chí Việt Nam phản ánh mối xung đột giữa Thủ tướng A. Sharon và Tổng thống Y. Arafat xung quanh vấn đề hoà bình ở Trung Đông
1. Quan điểm của các thủ tướng trước thời ông A. Sharôn
Tiến trình hoà bình ở Trung Đông thực sự được khởi động từ Hội nghị hòa bình diễn ra ở Ma-đrít (Tây Ban Nha) tháng 10-1991, với công thức “đổi đất lấy hoà bình”. Chính sách “đổi đất lấy hoà bình” được Chính phủ I-xra-en trước đây, do cố thủ tướng I-xra-en Y. Ra-bin đứng đầu, tán thành và chấp nhận làm cơ sở thương lượng cho các hiệp định sau này. Hiệp định “Ga-da và Giê-ri-cô” (9-1993) được coi là hiệp định đặt nền móng đầu tiên cho việc đi tới giải pháp hoà bình Trung Đông sau hàng thập kỷ xung đột đầy máu và nước mắt. “Chân trời hoà bình” tưởng đã “rộng mở” như tuyên bố lạc quan của Thủ tướng Y. Ra-bin, nhưng giờ đây có lúc lại đầy mây u ám.
Tiến trình hoà bình Trung Đông bị khựng lại kể từ khi Chính phủ của Thủ tướng I-xra-en B. Nê-ta-ni-a-hu lên cầm quyền (6-1996). Trước và sau khi nhậm chức, ông Nê-ta-ni-a-hu đã tuyên bố: không chấp nhận nguyên tắc “đổi đất lấy hoà bình”, không công nhận nhà nước Pa-le-xtin độc lập, không đàm phán về quy chế thành phố Giê-ru-xa-lem, không rút quân khỏi cao nguyên Gô-lan và đòi xem xét lại cac điều khoản đã được ký kết từ trước giữa Chủ tịch PLO Y. A rafat và cố thủ tướng Y. Ra-bin. Nền tảng hoà bình lại đụng phải nhiều thách thức trước sự điều chỉnh chính sách và sự thay đổi thái độ, lập trường của chính phủ B. Nê-ta-ni-a-hu đối với các nước A-rập. (tạp chí Cộng sản 1/1998).
Tới thời của thủ tướng E. Ba-rắc những tưởng tiến trình hoà bình ở Trung đông sẽ trở nên sáng sủa hơn, vì trước và sau khi lên nhận chức ông đều hứa sẽ làm hết mình để đem lại hoà bình cho vùng đất này. Nhưng những chính sách dùng dằng nửa vời của ông không những không giải quyết được vấn đề mà còn làm cho tình hình trở nên bế tắc, bạo lực xảy ra liên miên, cử tri mất lòng tin, chính điều đó đã có lợi cho ông A.Sharon một người theo chủ nghĩa quân phiệt, được coi là người có thái độ cứng rắn lên nắm quyền.
2. Chính sách bạo lực của ông A. Sharôn
Giống như hai vị tư lệnh già nua gắng sức chiến đấu vì đất đai, tịm lại vinh quang, Thủ tướng Ariel Sharôn và Chủ tích Nhà nước Palestine Yaser Arafat đang thực sự đối đầu vì một mối thù truyền kiếp.
Việc I-xra-en xiết chặt vòng vây, giam lỏng ông Arafat ở khu Bờ Tây chỉ là sự kiện mới nhất trong cuộc đấu trí kéo dài hàng thập kỷ giữa hai “cụ ông” nay đã ở độ tuổi 70. Mọi bất đồng và căng thẳng nảy sinh từ năm 1982, khi ông Sharôn, thời đó là một vị tướng, bộ trưởng Quốc phòng, đem quân đáng đuổi người Palestin khỏi đất Libăng. Tướng Sharôn mạnh mồm gọi ông Arafát là “kẻ thù” và “một tên khủng bố”. Khi đó, người Pa-le-xtin cũn