MBA vai trò tiên phong đào tạo khởi nghiệp thời đại CMCN 4.0

Đối với khối ngành kinh tế, Quản trị kinh doanh luôn là ngành đi đầu về số lượng sinh viên, (thử nghiệm về) chất lượng đào tạo, liên kết đào tạo, trình độ được cấp phép đào tạo. Chính vì vậy, chương trình MBA (Master of Business Administration) luôn được xem là bước đi tiên phong trong đảm bảo và nâng cấp chất lượng giáo dục tại các trường đại học, bao gồm cả định hướng khởi nghiệp cho sinh viên ngay từ những học kỳ đầu tiên, từ đó tạo ra hiệu ứng lan tỏa cho các chuyên ngành khác. Bài viết này sẽ nghiên cứu tính tiên phong, sứ mệnh và vai trò chiến lược của hình thức đào tạo này trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.

pdf8 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 397 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu MBA vai trò tiên phong đào tạo khởi nghiệp thời đại CMCN 4.0, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
311 MBA AS PIONEERING ROLE IN ENTREPRENEURSHIP EDUCATION IN THE ERA OF IR 4.0 MBA VAI TRÒ TIÊN PHONG ĐÀO TẠO KHỞI NGHIỆP THỜI ĐẠI CMCN 4.0 Nguyen Hoang Tien, PhD Helena Chodkowska University of Economics and Technology in Warsaw Tóm tắt Đối với khối ngành kinh tế, Quản trị kinh doanh luôn là ngành đi đầu về số lượng sinh viên, (thử nghiệm về) chất lượng đào tạo, liên kết đào tạo, trình độ được cấp phép đào tạo. Chính vì vậy, chương trình MBA (Master of Business Administration) luôn được xem là bước đi tiên phong trong đảm bảo và nâng cấp chất lượng giáo dục tại các trường đại học, bao gồm cả định hướng khởi nghiệp cho sinh viên ngay từ những học kỳ đầu tiên, từ đó tạo ra hiệu ứng lan tỏa cho các chuyên ngành khác. Bài viết này sẽ nghiên cứu tính tiên phong, sứ mệnh và vai trò chiến lược của hình thức đào tạo này trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Từ khóa: Thạc sỹ quản trị kinh doanh, tiên phong, chất lượng giáo dục, định hướng và giáo dục khởi nghiệp. 1. Đặt vấn đề Chất lượng là yếu tố cốt lõi làm nên sự thành công của ngành giáo dục và đào tạo, cũng như bao nhiêu loại hình dịch vụ khác đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế tri thức (Nguyễn Hoàng Tiến, 2012). Trong điều kiện hạn chế của nền kinh tế Việt Nam về mọi mặt, đặc biệt là đối với nền giáo dục nước nhà, việc đầu tư có chọn lọc thực sự là cần thiết, tránh dàn trải, lãng phí nguồn lực quý báu. Đối với mỗi trường đại học, việc lựa chọn ra một số ngành nghề chủ đạo để thí điểm đầu tư được coi là chiến lược thông minh, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả những nguồn lực vốn đã rất hạn hẹp. Đối với các trường đại học đa ngành, việc lựa chọn khối ngành kinh tế để thí điểm đầu tư nhằm cải tiến chất lượng dạy và học, đổi mới chương trình đào tạo và chủ động hội nhập sâu vào nền giáo dục quốc tế, định hướng khởi nghiệp rõ rệt hơn cho sinh viên, trong đó đặc biệt chú trọng chuyên ngành quản trị kinh doanh, là hướng đi thường được nhà trường và ban giám hiệu lựa chọn nhất (Nguyễn Hoàng Tiến, 2017a, 2017b; Rynca và Radomska, 2009; Howard và ai, 2012). Đối với các trường đại học chuyên về kinh tế (Đại học inh tế) hay kỹ thuật (Đại học Bách khoa, Đại học Công nghệ) thì đây dường như là sự lựa chọn và ưu tiên số một (Nguyễn Hoàng Tiến, 2017b; Todose, 2008). Ngành quản trị kinh doanh và chương trình đào tạo thạc sỹ quản trị kinh doanh MB liên quan chặt chẽ tới chủ đề khởi nghiệp, do đó luôn được các trường kinh tế hay bách khoa chú trọng nhất. Đối với các trường kinh tế, quản trị kinh doanh là ngành học đại trà với những khối kiến thức được tổng hợp lại từ các chuyên ngành khác nhau như: kinh tế học, kế toán và tài chính, xã hội học, tâm lý học, toán học (vận trù xác suất thống kê), tin học ứng dụng, quản trị học 312 Nhưng đối với các trường bách khoa, chương trình quản trị kinh doanh nhằm bổ sung cho các kỹ sư những kỹ năng mềm, năng lực quản trị và lãnh đạo trong môi trường kinh doanh, khoa học và công nghệ khó dự đoán và luôn có nhiều đột biến lớn. Bởi lẽ phần lớn các học viên chương trình cao học MB là những đối tượng có bằng kỹ sư và kinh nghiệm làm việc liên quan đến kỹ thuật, họ cần được định hướng để khám phá ra những cơ hội khởi nghiệp tiềm ẩn trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. 2. Phương pháp nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của bài báo là nhằm so sánh vai trò, sứ mệnh của các chương trình MB trong định hướng khởi nghiệp của các trường khối ngành kinh tế và khối ngành kỹ thuật. Chương trình MB vốn dành cho sinh viên ngành kinh tế muốn củng cố lại, cập nhật và hệ thống hóa kiến thức của mình trong quá trình học đại học nhằm nần cao năng lực và khả năng của mình trên thị trường lao động. Tiếp theo, các chương trình MB được đa dạng hóa và thiết kế cho phù hợp với các đối tượng học viên là các kỹ sư, rồi tới các chuyên gia trong các lĩnh vực khác để bồi dưỡng cho họ thêm kiến thức giúp họ có thêm định hướng thực tế để khởi nghiệp hiệu quả hơn trong lĩnh vực ngành nghề của họ. Bài viết này sử dụng phương pháp so sánh tổng hợp để tìm ra những điểm khác biệt và lợi thế của các chương trình MB dành cho khối ngành kinh tế và khối ngành kỹ thuật công nghệ để các giám đốc các chương trình MB này hiểu hơn về vai trò và sứ mệnh của mình đối với định hướng khởi nghiệp trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 của các học viên là những đối tượng tương đối có kinh nghiệm và thâm niên công tác trong lĩnh vực của mình. Bài viết này tập trung tìm hiểu, phân tích và so sánh giữa các chương trình MB của các trường Đại học inh tế (Schools of Economics) và ỹ thuật (Universities of Technology) hàng đầu tại 6 thành phố lớn nhất của Ba Lan (nơi mà tác giả đã từng sống và học tập) như: Warsaw, Gdansk, Wroclaw, Cracow, Lodz, atowice. Các chương trình MB của các cơ sở giáo dục đào tạo này thường được đánh giá rất cao trong các bảng xếp hạng MB quốc gia và được đông đảo các đối tượng học viên lựa chọn mặc dù mức học phí không hề rẻ chút nào. Việc phân tích so sánh hai nhóm chương trình MB này giúp đưa ra những nhận định khách quan nhất về thực trạng, vai trò và triển vọng phát triển của chúng trong công tác đào tạo và định hướng khởi nghiệp cho các học viên thường là các cán bộ các sở ban ngành được cử đi đào tạo, các nhà quản lý, các doanh nhân đại diện cho các lĩnh vực ngành nghề khác nhau của nền kinh tế. 3. Vai trò, sứ mệnh và vị trí chiến lược của chương trình MBA trong định hướng khởi nghiệp của khối các trường kinh tế Chương trình đào tạo thạc sỹ quản trị kinh doanh MB đóng vai trò nòng cốt trong công tác đào tạo sau đại học của các trường kinh tế. Nó là tấm gương để các chuyên ngành khác noi theo trong quá trình xây dựng, vận hành, đảm bảo chất lượng, hướng tới hội nhập giáo dục và định hướng khởi nghiệp trong môi trường quốc tế cho học viên các chương trình cao học của mình như: tài chính ngân hàng, chính sách công, (quản trị) kinh doanh quốc tế Các trường đại học khối ngành kinh tế thường năng động hơn, so với các trường đại học khối ngành kỹ thuật, trong công tác đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy, hợp tác quốc tế sâu rộng trên phương diện liên kết đào tạo, mời/trao đổi giảng viên, trao đổi sinh viên/học viên (thực tập tại công ty nước ngoài một thời gian nhất định theo 313 quy định của chương trình, trải nghiệm học tập tại môi trường học tập của các đối tác liên kết với mục tiêu là định hướng khởi nghiệp quốc tế trong môi trường đa văn hóa). Do đó, học viên có nhiều điều kiện hơn để củng cố kỹ năng và thái độ, nâng cao năng lực và tinh thần khởi nghiệp, mở rộng mối quan hệ cần thiết cho công việc hiện tại và sự nghiệp sau này (Lorange, 2008; Fragueiro và Thomas, 2011). Thực tế các nước phát triển những năm 60-70 thế kỷ qua cho thấy, chương trình đào tạo thạc sỹ quản trị kinh doanh MB hầu hết đều có xuất xứ khởi điểm từ các trường đại học kinh tế hàng đầu như Harvard, London, cái nôi của những tấm gương khởi nghiệp toàn cầu (Bill Gates, Steve Jobs) và lò đào tạo các chương trình MB chất lượng cao với sứ mệnh là đào tạo các nhà quản trị chuyên nghiệp, được trang bị những kiến thức thực tiễn mới nhất và đầy đủ nhất về kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa và xã hội để có thể nắm giữ các vì trí quản lý điều hành chủ chốt tại các doanh nghiệp, các tập đoàn (Howard và ai, 2012). Các trường đại học kỹ thuật (University of Technology) và các học viện công nghệ (Institute of Technology), chẳng hạn như Massachusets Institute of Technology, Illinois Institute of Technology, là những đối tượng kế tiếp trong triển khai đào tạo các chương trình MB với định hướng khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ mới cùng với làn sóng phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và truyền thông, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang cận kề (Nguyễn Hoàng Tiến, 2018b). 4. Vai trò, sứ mệnh và vị trí chiến lược của chương trình MBA trong định hướng khởi nghiệp của khối các trường kỹ thuật Chương trình đào tạo thạc sỹ quản trị kinh doanh MB đóng vai trò nòng cốt trong công tác đào tạo sau đại học của các trường kỹ thuật với sự chú trọng vào năng lực và tinh thần khởi nghiệp của mỗi kỹ sư khi ra trường để sao cho họ đừng chỉ là những cỗ máy “vô hồn” trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thời đại này (Nguyễn Hoàng Tiến, 2017c). Để đạt được điều này, các kỹ sư tương lai, ngoài kiến thức kỹ thuật, cần phải hội tụ thêm ở mình những kiến thức về kinh doanh, hợp tác, khởi nghiệp, văn hóa và xã hội, pháp luật, những kỹ năng mềm cần thiết để xử lý những tình huống phức tạp trong doanh nghiệp và xã hội ngày nay. Phương châm đào tạo MB tại các trường đại học kỹ thuật chính là “mỗi kỹ sư phải làm chủ được kiến thức khoa học công nghệ trong lĩnh vực của mình, có thể tự khởi nghiệp, hiện thực hóa những ý tưởng khoa học kỹ thuật độc đáo, từ đó có thể tự sáng lập và tự điều hành doanh nghiệp mang lại những lợi ích nhất định cho xã hội, công đồng và bản thân” (Howard và ai, 2012). MB cũng là tấm gương để các chuyên ngành kỹ thuật khác noi theo trong quá trình xây dựng, đảm bảo chất lượng và hướng tới hội nhập giáo dục và khởi nghiệp quốc tế của các chương trình cao học các ngành khoa học kỹ thuật được ưa chuộng và có triển vọng trong thời đại kinh tế trí thức hiện nay như: quản lý công nghiệp, công nghệ thông tin, quản lý môi trường, công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm (Nguyễn Hoàng Tiến, 2012) Các trường đại học khối ngành kỹ thuật thường ít năng động hơn, so với các trường đại học khối ngành kinh tế, trong công tác đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy, hợp tác quốc tế sâu rộng trên phương diện liên kết đào tạo, mời/trao đổi giảng viên, trao đổi sinh viên/học viên (thực tập tại công ty nước ngoài theo quy định của chương trình, trải nghiệm học tập tại môi trường học tập của đối tác liên kết nhằm củng cố năng lực khởi nghiệp quốc tế trong môi trường đa văn hóa) trong khuôn khổ chương 314 trình thạc sỹ quản trị kinh doanh MB . Những mặt hạn chế kể trên của chương trình MB triển khai tại các trường kỹ thuật được bù đắp bởi những học phần mang tính liên ngành, kết nối giữa các lĩnh vực kinh tế và kỹ thuật như: hệ thống tin học quản lý, quản lý an toàn và vệ sinh lao động, đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, giúp các học viên có thể tìm thấy cơ hội khởi nghiệp dựa trên những ứng dụng thực tế những kiến thức kỹ thuật đã học, khả năng thương mại hóa và triển khai các ý tưởng kinh doanh đặc thù cho lĩnh vực kỹ thuật mình được đào tạo. Điều này các học viên chương trình MB của các trường khối ngành kinh tế ít có cơ hội phát huy. 5. Phân tích so sánh tính tiên phong của chương trình MBA trong định hướng khởi nghiệp tại khối các trường kinh tế và kỹ thuật Bảng 1 sau đây trình bày sơ bộ về những nét khác biệt của các chương trình MB trong đảm bảo, cải tiến chất lượng giáo dục và định hướng khởi nghiệp tại khối các trường kinh tế và kỹ thuật. Tiếp theo, chúng ta sẽ nghiên cứu sâu hơn đối với một số tiêu chí nhất định, và mối liên quan giữa chúng, tạo nên nền tảng chất lượng của chương trình. Bảng 1. Sự khác biệt giữa chương trình MB của các trường kinh tế và kỹ thuật. Sự khác biệt giữa tính chất của chương trình MBA của các trường khối kinh tế và của các trường khối kỹ thuật STT Tiêu chí Khối kinh tế Khối kỹ thuật Học phí và tính chất thương mại Rất cao Cao vừa phải 1 Nền tảng của học viên đầu vào Đa dạng Khoa học và kỹ thuật 2 Kinh nghiệm chuyên môn và quản lý yêu cầu 3-5 năm 1-2 năm 3 Tính cập nhập của chương trình Cao Vừa phải 4 Phương pháp giảng dạy Đa dạng, tích cực, chủ động Vừa phải 5 Tài liệu tham khảo Đa dạng, phong phú Mức độ đa dạng vừa phải 6 Trao đổi giảng viên (giảng viên nước ngoài) Cao Thấp 7 Trao đổi học viên với cơ sở giáo dục liên kết nước ngoài Cao Vừa phải 8 Trải nghiệm của học viên trong môi trường làm việc thực tế Cao Thấp 9 Sử dụng tiếng Anh và các Cao, chú trong tới Vừa phải, chủ yếu 315 công cụ ngoại ngữ khác các ngoại ngữ khác tiếng Anh 10 Phương pháp nghiên cứu trong học tập Định tính Định tính Định lượng 11 Tính liên ngành của chương trình đào tạo Thấp Cao 12 Tinh thần khởi nghiệp và phát hiện những ý tưởng kinh doanh táo bạo Những ý tưởng kinh doanh phổ biến Những ý tưởng kinh doanh đặc thù 13 Thái độ và kỹ năng mềm Hoàn hảo Cao 14 Mở rộng mối quan hệ xã hội – nghệ nghiệp cần thiết cho mai sau Cao Vừa phải 15 Thích nghi với môi trường kinh doanh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Vừa phải Cao Nguồn: Tác giả tổng hợp dựa trên đánh giá và xếp hạng một số chương trình MB nước ngoài Trao đổi giảng viên (giảng viên nước ngoài) Do tính thương mại và mức học phí của các chương trình MB của các trường kinh tế (gọi tắt là “MB kinh tế”) so với các chương trình MB của các trường kỹ thuật (gọi tắt là “MB kỹ thuật”) thường cao hơn nên cơ hội để tìm kiếm những giảng viên nước ngoài là các giáo sư giỏi hay các chuyên gia tại các tập đoàn dễ dàng hơn, cơ hội để học viên học hỏi, thực hành nhằm tìm kiếm cơ hội và củng cố năng lực khởi nghiệp quốc tế cũng cao hơn nhiều. Chính phủ hay các doanh nghiệp một số nước như Đức có thể tham gia tài trợ một số chương trình MB kỹ thuật đặc thù (VGU, 2018). Sự trao đổi giảng viên cũng một phần do tính chất của môn học cho phép dễ dàng tìm kiếm những giảng viên phù hợp về mặt chuyên môn của MB kinh tế hơn so với bên MB kỹ thuật. Trao đổi học viên với cơ sở giáo dục liên kết nước ngoài Do tính thương mại và mức học phí của các chương trình MB kinh tế so với các chương trình MB kỹ thuật thường cao hơn đáng kể nên, để đảm bảo chất lượng đào tạo không thua kém so với các chương trình MB của các đối tác liên kết, việc trao đổi học viên với cơ sở giáo dục liên kết nước ngoài trở nên bắt buộc để khẳng định vị thế và thương hiệu của chương trình MB kinh tế và mang lại những giá trị gia tăng thực tế (cơ hội định hướng khởi nghiệp trong môi trường kinh doanh quốc tế) cho người học được coi là những khách hàng đáng trân trọng. Trải nghiệm của học viên trong môi trường làm việc thực tế Cũng chính vì tính thương mại và mức học phí cao hơn khi so sánh với các MB kỹ thuật, để đảm bảo sự gắn kết với thực tế môi trường kinh doanh và các tập đoàn kinh tế, học viên trong khuôn khổ chương trình đào tạo được trải nghiệm môi trường làm việc 316 mô phỏng và sau đó là môi trường làm việc thực tế tại đây. Đây chính là cầu nối với thế giới kinh doanh bên ngoài và là điều kiện để học viên tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp và định hướng khởi nghiệp hấp dẫn hơn cho bản thân mình và là công cụ để đánh bóng thương hiệu cho những chương trình MB vốn đã được nhiều đối tượng học viên, các doanh nghiệp và các nhà tuyển dụng biết đến. Tính liên ngành của chương trình đào tạo Tinh thần khởi nghiệp và phát hiện những ý tưởng kinh doanh táo bạo Ở mục này các chương trình MB kỹ thuật có những lợi thế nhất định so với MB kinh tế. MB kỹ thuật, bản thân tên gọi của nó đã gợi ý tính chất liên ngành của chương trình đào tạo. MB kỹ thuật chính là cầu nối khối ngành kỹ thuật với khối ngành kinh tế, bổ sung thêm những kiến thức về kinh doanh, quản trị và khởi nghiệp để các kỹ sư có thể phát huy vai trò của mình không chỉ trên cương vị chuyên gia kỹ thuật mà còn có thể khởi nghiệp dựa trên vốn kiến thức có được và kiếm lợi nhiều hơn từ những kiến thức chuyên môn vốn có và những ý tưởng kinh doanh và công nghệ táo bạo. Thích nghi với môi trường kinh doanh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Nhờ những vốn trí thức cơ bản về khoa học công nghệ, tư duy định lượng và logic, các kỹ sư có thể bổ sung thêm những kiến thức và kỹ năng cần thiết về kinh doanh, khởi nghiệp, kế toán, quản trị, tài chính và marketing, từ đó một cách dễ dàng hòa nhập vào môi trường kinh doanh đã và đang được định hình bởi cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Đây là lợi thế mà các học viên MB kinh tế không có được và phải mất rất nhiều thời gian và không phải ai cũng làm được. Các nhà khởi nghiệp, lãnh đạo các tập đoàn trên thế giới đều bắt đầu từ nền tảng chuyên môn kỹ thuật như Bill Gates, Steve Jobs. 6. Kết luận, đề xuất và kiến nghị Như phần 4 đã trình bày về các yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa các chương trình MB kinh tế và chương trình MB kỹ thuật, lợi thế đáng đề cập của mỗi bên; đã đi sâu vào 05 yếu tố (tiêu chí) (và mối liên hệ giữa chúng) chủ chốt tạo nên nền tảng chất lượng và định hướng khởi nghiệp của các chương trình MB . Tác giả kiến nghị các nhà làm công tác giáo dục, đặc biệt là các chuyên gia xây dựng chương trình MB nên chú trọng vào 05 yếu tố này, trong đó có 03 yếu tố đầu là những lợi thế nhất định của MB kinh tế, 02 yếu tố sau là những lợi thế nhất định của MB kỹ thuật; tạo tính kết nối và liên hệ giữa chúng để sao cho có được một chương trình MB hoàn thiện vừa đạt được những yêu cầu và tiêu chuẩn đề ra đồng thời của một MB kinh tế và của một MB kỹ thuật. Rốt cuộc, tất cả chúng ta đang sống trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0 với vai trò và động lực phát triển của khoa học kỹ thuật và các xu hướng công nghệ hiện hành, việc kết nối và áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào đời sống kinh tế xã hội nhằm nâng cao hiệu quả và tạo nên những giá trị và lợi ích thiết thực là điều không thể tránh khỏi. Ngoài ra, để các chương trình MB được phát triển và phát huy được đúng vai trò của mình trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0, các chuyên gia xây dựng chương trình cần phải: Một là, đa dạng hóa chương trình MB , tức ngoài chương trình MB cho khối kinh tế và kỹ thuật, xem xét xây dựng chương trình MB cho các chuyên gia trong các 317 lĩnh vực khác như y tế, xã hội nhân văn, nghệ thuật, văn hóa và thể thao. Trong một nền kinh tế thị trường đang được hội nhập và quốc tế hóa, các chuyên gia này cũng cần tới kiến thức quản trị kinh doanh và khởi nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp của mình. Hai là, đa dạng hóa về mức độ học phí, và nguồn tài trợ cho các chương trình MB để các học viên là các chuyên gia trong các lĩnh vực ngành nghề khác nhau có thể tiếp cận được với kiến thức và kỹ năng về quản trị kinh doanh đương đại. Ba là, ngoài các chương trình MB mang tính tổng quát, cung cấp cho người học cái nhìn tổng thể về quản trị kinh doanh, cần thiết phải triển khai các chương trình MB đặc thù, đi sâu vào một số phạm vi kiến thức rất cụ thể trong quản trị kinh doanh như: nghệ thuật lãnh đạo, khởi nghiệp, quản trị doanh nghiệp (corporate governance) tùy thuộc vào nhu cầu và sở thích của các đối tượng người học hết sức đa dạng. 318 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Barolli E. and Sevrani K. (2009), Reflection on E-learning Readiness in Albanian Education. Contemporary Economics, Vol. 9 No. 1, pp. 5-18. 2. Fragueiro, F. and Thomas, H. (2011), Strategic Leadership in the Business School: Keeping One Step Ahead, Cambridge University Press, Cambridge. 3. Howard, T. and Kai P. (2012), A Sustainable Model for Business Schools. Journal of Management Development, Vol. 31 No. 4, p. 381. (DOI 10.1108/02621711211219031) 4. Lorange, P. (2008), Thought Leadership Meets Business: How Business Schools Can Become More Successful, Cambridge University Press, Cambridge. 5. Nguyễn Hoàng Tiến (2018b). Developing Potential of University Lecturers in Context of Education Reformation Challenged by Industrial Revolution 4.0. Scientific Conference “Young University Staff toward Education Innovation and Industrial Revolution 4.0”. pril 2018. Hanoi University of Education, Vietnam. 6. Nguyễn Hoàng Tiến (2017a). Challenges in the International Cooperation of Pedagogical Universities in Vietnam. Conference on “Perspectives of International Cooperation of the Universities”, ctober 2017, University of Pedagogy, Ho Chi Minh City. 7. Nguyễn Hoàng Tiến (2017b). International Executive MBA Study Program as Part of the International Cooperation Strate