Những phát triển nghiên cứu gần đây cố
gắng làm giảm đi vai trò của mô hình IS – LM
(Investment – Saving/ Liquidity Preference -
Money Supply) trong phân tích chính sách khi
cố gắng thay thế vai trò của giá cả bằng mức
lạm phát và sử dụng lãi suất như là công cụ
đại diện cho hành động của Ngân hàng Trung
Ương (NHTW) hơn là cung tiền. Mô hình
đề xuất IS – MP – IA (Investment – Saving,
Monetary Policy, Inflation Adjustment) được
xem là có nhiều ưu điểm khi mô phỏng nền
kinh tế với chức năng của lãi suất thực, giúp
kiềm chế lạm phát nhưng đảm bảo mức tăng
sản lượng của nền kinh tế. Mặc dù đây chưa
phải là khuôn khổ thay thế hoàn hảo nhưng đã
góp phần xây dựng mô hình phân tích chính
sách trở nên thực tế và hợp lý hơn.
14 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 672 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
12
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
MÔ HÌNH KEYNESIAN MỚI KHÔNG CÓ ĐƯỜNG CONG LM
Nguyễn Hoàng Chung*, Trương Văn Cường**, Hồ Đăng Huy***
TÓM TẮT
* ThS. GV. Trường Đại học Kinh Tế - Kỹ Thuật Bình Dương. NCS. Trường Đại học Ngân hàng
TP. Hồ Chí Minh. ĐT: 0906.672.588, Email: nhchung@ktkt.edu.vn
** ThS. GV. Trường Đại học Kinh Tế - Kỹ Thuật Bình Dương, Email: tvcuong@ktkt.edu.vn
*** CN. GV. Trường Đại học Kinh Tế - Kỹ Thuật Bình Dương, Email: hdhuy@ktkt.edu.vn
Những phát triển nghiên cứu gần đây cố
gắng làm giảm đi vai trò của mô hình IS – LM
(Investment – Saving/ Liquidity Preference -
Money Supply) trong phân tích chính sách khi
cố gắng thay thế vai trò của giá cả bằng mức
lạm phát và sử dụng lãi suất như là công cụ
đại diện cho hành động của Ngân hàng Trung
Ương (NHTW) hơn là cung tiền. Mô hình
đề xuất IS – MP – IA (Investment – Saving,
Monetary Policy, Inflation Adjustment) được
xem là có nhiều ưu điểm khi mô phỏng nền
kinh tế với chức năng của lãi suất thực, giúp
kiềm chế lạm phát nhưng đảm bảo mức tăng
sản lượng của nền kinh tế. Mặc dù đây chưa
phải là khuôn khổ thay thế hoàn hảo nhưng đã
góp phần xây dựng mô hình phân tích chính
sách trở nên thực tế và hợp lý hơn.
Từ khóa: mô hình IS – LM, mô hình
Keynesian mới, mô hình IS – MP – IA.
A NEW KEYNESIAN MODEL WITHOUT THE LM CURVE
ABSTRACTS
Recently researches try to reduce the role
of the model IS-LM in the analyzing economic
policy. These studies try to replace the role of
the price by the inflation and the interest rate
which are considered as the policy tools for
Central Banks. The model IS - MP - IA has
advantages with the real interest rate that
controlling inflation but increasing an output
of the economy. This model is an incomplete
one but this contributes to building the rational
macroeconomic model.
Keywords: IS – LM model, New Keyensian
model, IS – MP – IA model.
1. TỔNG QUAN VỀ CÁCH TIẾP CẬN MỚI
Mô hình IS-LM là lý thuyết tổng quát về
tổng cầu. Các biến ngoại sinh trong mô hình
này là chính sách tiền tệ, chính sách tài chính và
mức giá. Mô hình giải thích hai biến nội sinh là
lãi suất và thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, giống
với tất cả mô hình đã nghiên cứu, IS – LM cũng
không phải là mô hình tổng quát.
Mô hình này thiếu nền tảng kinh tế vi mô
do đơn giản hóa sự phức tạp của nền kinh
tế đối với một số mối quan hệ giữa các chủ
thể trong nền kinh tế, giả định về giá cả cứng
nhắc, không cho thấy ảnh hưởng đối với yếu
tố kỳ vọng. Một thay đổi lớn là các cuộc tranh
luận giữa các nhà khoa học về hiệu quả tương
đối của chính sách tiền tệ và tài khóa là trọng
13
tâm của kinh tế vĩ mô trong những năm 1960 -
1970 thì hiện nay có ít ý nghĩa trong việc phân
tích các biến động ngắn hạn. Thực tế, một thay
đổi quan trọng là hầu hết các NHTW, bao gồm
cả Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), giờ đây ít
quan tâm đến việc tổng khối lượng cung tiền
trong việc thực thi chính sách (được xem là
giả định cơ bản của mô hình IS – LM).
Tóm lại, những phát triển gần đây đang cố
gắng làm giảm đi vai trò của mô hình IS - LM
trong phân tích chính sách. Điều này dẫn đến
câu hỏi liệu mô hình IS-LM có còn là sự lựa
chọn tốt nhất như là mô hình cơ bản đại diện
cho các dao động trong ngắn hạn và sử dụng
như là cơ sở cho phân tích chính sách. Một số
nghiên cứu gần đây cố gắng làm giảm đi vai
trò của mô hình IS – LM trong phân tích chính
sách và chỉ ra các hạn chế này là trọng yếu
trong phân tích chính sách hiện nay.
Thứ nhất, nghiên cứu của Romer (2012)
đã thay thế đường cong LM (giả định rằng
NHTW đặt mục tiêu cung tiền) với giả định
rằng NHTW thực hiện theo một quy tắc lãi
suất thực. Cách tiếp cận mới này có lợi thế rõ
ràng trong việc giải quyết vấn đề mà mô hình
IS-LM giả định thông qua mục tiêu cung tiền.
Thứ hai, một nguyên nhân khác có thể
thấy rằng vai trò của NHTW ngày càng trở nên
quan trọng, nếu như trước đây để tìm hướng đi
và công cụ thích hợp để điều hành CSTT hiệu
quả bằng cách kiểm soát khối lượng tiền tệ
với công cụ là tổng phương tiện thanh toán
M1 sau đó chuyển sang M2. Tuy nhiên với
sự phát triển của thị trường tài chính đi cùng
với các tài sản tài chính phái sinh cao cấp ra
đời (MBS, CDO, CDS,)1 việc xác định tổng
phương tiện thanh toán là rất khó khăn. Vì vậy
các NHTW đặc biệt là FED đã chuyển dần
cách thức điều hành CSTT từ công cụ mục tiêu
M2 sang công cụ lãi suất. Một phần nguyên
nhân là tính phức tạp của việc sử dụng khối
lượng tiền, sự không bền vững của cầu tiền có
nguyên nhân từ sự bất ổn trong ngắn hạn, trong
đó phải kể đến sự tăng lên không được dự tính
trong nhu cầu về tiền làm dịch chuyển đường
LM, dẫn đến điểm cân bằng khác so với cân
bằng mà NHTW dự tính khi quyết định mục
tiêu về cung ứng tiền tệ tạo điều kiện để các
NHTW của các nền kinh tế hiện đại chuyển
sang điều hành lãi suất thay cho mục tiêu về
cung tiền với tư cách là cơ sở cho quy tắc về
CSTT dần được loại (Orphanides, 2007).
Hình 1: Sự tăng lên không được dự tính trong
nhu cầu về tiền
Theo hình 1, đường LM
1
tương ứng với
nhu cầu tiền ở mức “thấp” (vì có sự gia tăng
đầy đủ về cung ứng tiền tệ) và LM
2
tương
ứng với nhu cầu tiền ở mức “cao”. Giả định
nhu cầu về tiền tăng lên nhưng NHTW chưa
biết, chưa xác định hay chưa lượng hóa được
việc này. Khi lựa chọn mục tiêu về cung tiền,
NHTW kỳ vọng nền kinh tế tại E
1
nhưng thực
tế những dịch chuyển không thấy trước trong
nhu cầu về tiền khiến nền kinh tế tại E
2
. Đây
không phải là điều mà CSTT theo đuổi khi đặt
mục tiêu về cung tiền.
1 MBS: Mortgage Backed Securities; CDO: Collateralized Debt Obligation; CDS: Credit Default Swap
Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM
14
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
2. KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH IS – LM
Mô hình giản lược IS - LM mô tả kinh tế
vĩ mô sử dụng hai mối quan hệ liên quan đến
sản lượng và lãi suất. Mối quan hệ đầu tiên
liên quan đến thị trường hàng hóa. Lãi suất
cao hơn làm giảm nhu cầu hàng hoá ở một
mức thu nhập nhất định. Trong hầu hết các
công thức của mô hình, nó làm giảm nhu cầu
đầu tư; mô hình cũng làm giảm nhu cầu về
tiêu dùng nói chung. Trong các phiên bản nền
kinh tế mở với tỷ giá hối đoái thả nổi, tăng giá
đồng nội tệ làm giảm xuất khẩu ròng. Lãi suất
cao làm giảm nhu cầu, nó làm giảm mức sản
lượng thấp hơn mức sản lượng cân bằng của
nền kinh tế. Do đó, có một mối quan hệ nghịch
biến giữa sản lượng và lãi suất, mối quan hệ
này được gọi là đường cong IS.
Mối quan hệ thứ hai liên quan đến thị
trường tiền tệ, biểu thị mối quan hệ giữa lãi
suất và thu nhập hình thành trên thị trường về
số dư tiền tệ thực tế dựa trên lý thuyết ưa thích
thanh khoản1. Khi thu nhập càng cao, nhu cầu
về số dư thực tế càng cao và lãi suất cân bằng
cũng càng cao, điều này làm đường LM dốc
lên. Đường LM được vẽ cho mức cung nhất
định về số dư tiền tệ thực tế, thể hiện mối quan
hệ tỉ lệ thuận giữa sản lượng và lãi suất.
Hình 2: Biểu đồ IS - LM
Giao điểm của IS - LM chỉ ra sự kết hợp
sản lượng và lãi suất mà cả thị trường hàng
hóa và thị trường tiền tệ đều cân bằng; giao
điểm này cho thấy sản lượng và lãi suất cân
bằng trong nền kinh tế. Việc tăng chi tiêu của
chính phủ hoặc giảm thuế sẽ làm dịch chuyển
đường cong IS sang bên phải, do đó tăng sản
lượng và lãi suất khi nền kinh tế dịch chuyển
lên theo đường cong LM. Mức độ ảnh hưởng
đến sản lượng phụ thuộc vào độ dốc của hai
đường cong và mức độ dịch chuyển của đường
cong IS. Tương tự như vậy, sự gia tăng của
cung về số dư tiền tệ thực tế làm đường LM
dịch chuyển xuống dưới và sự giảm sút của
cung về số dư tiền tệ thực tế làm đường LM
dịch chuyển lên trên, do đó làm giảm (tăng)
lãi suất và sản lượng. Mức độ ảnh hưởng của
sản lượng phụ thuộc vào độ dốc và mức độ mà
đường cong LM di chuyển.
Mô hình giả định là phiên bản với mức
giá cố định; do đó nó không thể được sử
dụng để phân tích lạm phát. Bởi vì lạm phát ít
được quan tâm (hay mức lạm phát thấp) trong
những năm 1950 - 1960, vì vậy mô hình IS-
LM cơ bản rất có giá trị. Nhưng khi lạm phát
trở nên quan trọng (hay lạm phát tăng mạnh)
vào cuối những năm 1960 - 1970, mô hình cần
phải thay đổi. Sự gia tăng của lạm phát dẫn
tới việc mở rộng mô hình IS - LM kết hợp
tổng cung (AS), dẫn đến mô hình IS-LM-AS
được sử dụng ngày nay. Các lý do chủ yếu
của việc sử dụng mô hình mở rộng mô hình
IS-LM là do sản lượng cao hơn dẫn đến mức
giá cao hơn. Tác động của sản lượng đối với
mức giá có thể là trực tiếp thông qua quyết
định giá của các doanh nghiệp, hoặc gián tiếp
thông qua tiền lương. Việc thiếu tính linh hoạt
danh nghĩa hoàn toàn (đường cong AS ở trong
không gian y – r thường dốc hay không phải
1 Lý thuyết ưa thích thanh khoản là một mô hình đơn giản về xác định lãi suất. Lý thuyết này coi cung ứng
tiền tệ và mức giá là yếu tố ngoại sinh và giả định rằng lãi suất điều chỉnh để cân bằng cung và cầu về số
dư tiền tệ thực tế. Nó hàm ý rằng sự gia tăng cung tiền làm giảm lãi suất (Nguyễn Văn Ngọc, 2009).
15
là đường thẳng đứng) là do tính chất của thị
trường không hoàn hảo. Kết quả là, sự dịch
chuyển của đường tổng cầu làm cho sản lượng
tạm thời lệch khỏi mức sản lượng tự nhiên.
Hay từ phương trình tổng cung (Nguyễn Văn
Ngọc, 2009):
( )
eY Y P Pα− = − với α > 0
Trong đó Y là sản lượng, Y là sản lượng
tự nhiên, P là mức giá và Pe là mức giá dự
kiến (hay kỳ vọng về giá cả). Tham số α cho
biết sản lượng phản ứng như thế nào đối với
những thay đổi bất ngờ của mức giá, với độ
dốc của đường tổng cung bằng 1/α. Phương
trình này nói rằng độ lệch sản lượng khi
mức giá lệch khỏi mức giá dự kiến (xác định
thông qua kỳ vọng hợp lý hay dựa trên mức
lạm phát trong quá khứ, hoặc là sự kết hợp cả
hai yếu tố này). Và 4 mô hình tổng cung dưới
đây nhấn mạnh một nguyên nhân nhất định
làm cho sản lượng biến đổi cùng với những
thay đổi về mức giá1 .
Do đó, mô hình IS- LM-AS (Investment/
Saving - Liquidity Preference/Money Supply
– Aggregate Supply) bao gồm ba phương
trình: sản lượng, lãi suất, và mức giá. Tuy
nhiên, việc mô tả một mô hình ba phương
trình bằng đồ thị tương đối là khó khăn. Sự
kết hợp giữa đường cong IS và LM có được
mối quan hệ giữa sản lượng và mức giá. Với
chức năng cung tiền (giả định nền tảng là
đường cong LM) một mức giá cao hơn làm
giảm cân bằng tiền thực. Do đó, đối với một
mức thu nhập nhất định, mức lãi suất tại điểm
cân bằng tăng lên. Đường cong LM thay
đổi, đường cong IS và LM giao cắt nhau ở
mức sản lượng thấp hơn trước. Mối quan hệ
nghịch đảo giữa mức giá và sản lượng được
gọi là đường tổng cầu. Đường tổng cầu và
tổng cung sau đó sẽ xác định sản lượng và
mức giá.
Hình 3: Biểu đồ tổng cung cầu - tổng cầu
Mô hình IS - LM - AS có thể được xem là
khá đơn giản để phân tích các biến động kinh
tế ngắn hạn hiện nay. Hai mô hình được biết
đến nhiều nhất hiện nay phải kể đến mô hình
cho rằng mức giá cứng nhắc và việc không
đưa vào nền tảng vi mô cho mô hình kinh tế
vĩ mô.
Đầu tiên, tính cứng nhắc cho thấy việc
thiếu điều chỉnh danh nghĩa hoàn hảo này làm
cho thay đổi tiền tệ ảnh hưởng đến sản lượng
thực trong ngắn hạn. Nó cũng tạo ra một kênh,
thông qua đó, những thay đổi khác trong tổng
cầu, chẳng hạn như những thay đổi trong chi
tiêu của chính phủ, có tác động thực sự. Đây
được xem như là một cơ sở hợp lý để hiểu
được sự biến động thực tế nhất.
Thứ hai là việc mô hình loại bỏ các nền
tảng kinh tế vi mô như nhu cầu tiêu dùng, đầu
tư, chủ yếu dựa trên các lập luận trực quan.
Lợi ích của việc thiếu cơ sở này là đơn giản
hoá rất lớn. Ngay cả những mô hình đơn giản
nhất với nền tảng kinh tế vi mô là khó hơn
1 Theo Nguyễn Văn Ngọc (2009), bốn mô hình tổng cung đó là: mô hình tiền lương cứng nhắc, mô hình
nhận thức sai lầm của công nhân, mô hình thông tin không hoàn hảo và mô hình giá cả cứng nhắc.
Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM
16
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
nhiều so với các thành phần tương ứng của
IS-LM-AS1. Khi chuyển từ các tính năng cơ
bản của mô hình IS-LM-AS sang các phiên
bản của nó nhưng các phiên bản này được
xem là khó, không nhất quán hoặc không
thực tế. Một là, mặc dù nghiên cứu đã đề cập
đến biến số lãi suất, nhưng thực tế lãi suất
khác nhau có liên quan đến các bộ phận khác
nhau của mô hình: lãi suất thực có liên quan
đến nhu cầu hàng hóa (đường cong IS) trong
khi lãi suất danh nghĩa có liên quan đến cầu
tiền (đường cong LM). Hai là, tổng cầu và
tổng cung đại diện cho mối quan hệ giữa sản
lượng và mức giá, trong khi biến động của
sản lượng và lạm phát mới là mối quan tâm
hiện tại.
Ví dụ, ở Hoa Kỳ sau chiến tranh, các cú
sốc bất lợi đối với tổng cầu đã dẫn tới sự sụt
giảm của lạm phát, chứ không phải là giảm
trong mức giá, biểu hiện thông qua số dư tiền
tệ thực tế (M/P) tại Hình 3. CSTT chỉ dẫn đến
sự dịch chuyển có tính chất thu hẹp của đường
cầu khi số dư tiền tệ thực tế giảm. Nhưng bằng
chứng thực nghiệm đã chỉ ra từ năm 1929 –
1931 tại Mỹ, số dư tiền tệ thực tế lại tăng nhẹ
(M/P); nguyên nhân là sự sụt giảm cung ứng
tiền tệ (M) đi kèm sự sụt giảm của mức giá (P)
nhưng lớn hơn (Nguyễn Văn Ngọc, 2009).
Hình 4: Số dư tiền tệ thực tế tại Mỹ giai đoạn 1929 – 1940
Nguồn: Nguyễn Văn Ngọc (2009)
1 Giả thuyết về thu nhập vĩnh viễn cho thấy những thay đổi trong thu nhập khả dụng (disposable income)
hiện nay chỉ ảnh hưởng đến tiêu dùng trong phạm vi ảnh hưởng đến thu nhập vĩnh viễn, trong khi hàm
tiêu dùng trong mô hình IS-LM-AS truyền thống hàm ý rằng chúng có ảnh hưởng lớn đến tiêu dùng khả
dụng. Sự thật dường như nằm ở giữa (ví dụ Campbell và Mankiw, 1989). Do đó chuyển từ giả thiết ngẫu
nhiên (ad hoc) trong IS-LM-AS sang một công thức tương đối đơn giản dựa trên tối ưu hóa thời gian
dường như không có lợi ích thực tế, nhưng dễ dàng phát sinh một chi phí lớn. Sự đánh đổi tương tự cho
việc phân tích nhu cầu đầu tư, cầu tiền, tính cứng nhắc về giá cả và chắc chắn rằng trong các nền tảng
kinh tế vi mô thì các mô hình đơn giản nhất cũng phức tạp và không thực tế so với các mô hình IS-LM-AS.
Thứ ba, mô hình giả định rằng NHTW sẽ
ấn định cung tiền nhưng hầu hết các NHTW ít
quan tâm đến việc cung tiền trong việc thực thi
chính sách. Tuy nhiên, khi bàn về tổng cung,
có thể kết luận rằng tổng cung biểu hiện rất
khác nhau trong ngắn hạn và dài hạn. Trong
dài hạn, giá cả linh hoạt và đường tổng cung là
đường thẳng đứng. Ngược lại trong ngắn hạn,
giá cả cứng nhắc và đường tổng cung không
thẳng đứng. Trong trường hợp này thì sự dịch
17
chuyển của đường tổng cầu là nguyên nhân
gây ra sự biến động của tổng sản lượng1.
Phần tiếp theo mô tả một sự thay thế cụ
thể cho mô hình IS-LM-AS. Giống như IS-
LM-AS, phương án thay thế giả định sự điều
chỉnh danh nghĩa không hoàn hảo và thiếu
nền tảng vi mô. Sự thay đổi là nó thay thế giả
định rằng NHTW đặt mục tiêu cung tiền với
giả định nó dựa trên quy tắc lãi suất đơn giản.
Nghiên cứu của Romer (2000) giới thiệu các
tính năng thiết yếu của cách tiếp cận mô hình
mới, so sánh nó với mô hình IS-LM-AS và
giải thích lý do tại sao nó thích hợp hơn.
Hình 5: Sự dịch chuyển của đường cổng cầu
(Nguyễn Văn Ngọc, 2009)
Hình 5 sử dụng phương trình tổng cung
để chỉ ra phản ứng của nền kinh tế đối với sự
gia tăng bất ngờ của tổng cầu. Trong ngắn
hạn, điểm cân bằng chuyển từ A đến B. Sự
gia tăng tổng cầu làm cho mức giá tăng lên
trên mức giá dự kiến và sản lượng cao hơn
mức tự nhiên. Trong dài hạn, do mức giá dự
kiến tăng, cho nên đường tổng cung ngắn hạn
dịch chuyển lên trên. Vì mức giá dự kiến tăng,
điểm cân bằng của nền kinh tế chuyển từ B
đến C. Nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng
tự nhiên, nhưng với mức giá còn cao hơn nữa.
Nhưng có thể thấy rằng bằng cách đó, sự dịch
chuyển của dường tổng cầu dẫn đến những
biến động ngắn hạn của sản lượng.
3. MÔ HÌNH IS – MP – IA
Giả định chính của cách tiếp cận mới là
NHTW thực hiện theo một quy tắc lãi suất
thực; như là một chức năng của các biến số
kinh tế vĩ mô như lạm phát và sản lượng. Giả
thiết này mô tả cách thức các NHTW thực thi
chính sách hơn giả định rằng các NHTW tuân
theo quy tắc cung tiền. Các NHTW ở hầu hết
các nước công nghiệp tập trung vào lãi suất
cho vay giữa các ngân hàng trong việc hoạch
định chính sách ngắn hạn của họ. Ví dụ tại
Hoa Kỳ, Cục Dự trữ Liên Bang thực thi chính
sách tiền tệ chủ yếu bằng cách sử dụng lãi suất
dự trữ liên bang. Việc phân biệt giữa quy tắc
lãi suất và quy tắc cung tiền nhằm hiểu được
mục tiêu hoạt động của các NHTW. Ví dụ,
nếu NHTW điều chỉnh lãi suất cho vay liên
ngân hàng để duy trì mức cung tiền càng gần
với đường mục tiêu bên ngoài nên đây được
xem là chính sách tiền tệ mục tiêu. Nhưng hầu
hết các NHTW không ứng xử theo cách này.
Tại Hoa Kỳ, Cục Dự trữ Liên Bang lựa chọn
lãi suất dự trữ liên bang để đạt được mục tiêu
lạm phát và sản lượng, cung tiền đóng vai trò
nhỏ nhất trong những lựa chọn đó (cung tiền
chỉ đóng một vai trò quan trọng trong chính
sách trong giai đoạn 1979 – 1982). Thật vậy,
định hướng chính sách của FED trong 18 năm
qua (tính từ năm 2000) được mô tả rõ ràng
bằng một chức năng đơn giản về lạm phát và
sản lượng (Taylor, 1993). Ngay cả ở Đức, nơi
có các mục tiêu tiền tệ bắt đầu từ năm 1975
và khi các mục tiêu đó đóng một vai trò quan
trọng trong các cuộc thảo luận chính sách
chính thức từ thập niên 70 - 90 tốt hơn được
mô tả bởi một quy tắc lãi suất hơn là nhắm đến
1 Thực tế, đường tổng cung ngắn hạn không hoàn toàn thẳng đứng vì tính chất không hoàn hảo của
thị trường. Do đó tổng cung có bốn mô hình nổi bật bao gồm: Mô hình tiền lương cứng nhắc, mô hình
nhận thức sai lầm của công nhân, mô hình thông tin không hoàn hảo và mô hình giá cả cứng nhắc.
Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM
18
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
mục tiêu cung tiền. NHTW Đức đã sẵn sàng từ
bỏ mục tiêu cung tiền khi điều đó mâu thuẫn
với những mục tiêu kinh tế vĩ mô. Kết quả là,
người ta có thể đưa ra một mô tả hoàn thiện về
chính sách tiền tệ của Đức trong 18 năm qua
(tính từ năm 2000) về điều chỉnh lãi suất của
NHTW Đức đối với lạm phát, sản lượng và tỷ
giá hối đoái đồng thời đánh giá vai trò thứ yếu
của cung tiền.
4. CÁC ƯU ĐIỂM CỦA MÔ HÌNH TIẾP
CẬN IS – MP - IA
4.1. NHTW điều hành chính sách theo lãi
suất thì phù hợp hơn so với cung tiền
Với đặc điểm này thì mô hình nghiên cứu
sử dụng để thảo luận chính sách thì dễ dàng
hơn. Ví dụ, các nghiên cứu về quyết sách của
NHTW liên quan đến lãi suất phổ biến hơn
nhiều so với việc NHTW sử dụng cung tiền.
Một ưu điểm quan trọng của cách tiếp cận mới
là quy tắc lãi suất thực. Hầu hết các NHTW
sử dụng lãi suất liên ngân hàng danh nghĩa là
công cụ ngắn hạn. Tuy nhiên, có hai lý do để
tập trung vào một quy tắc lãi suất thực.
Lý do đầu tiên là tính thực tế. Khi NHTW
cố định tỷ giá danh nghĩa, lạm phát dự kiến
tăng sẽ làm giảm lãi suất thực cho đến khi ngân
hàng xem xét lại sự lựa chọn của nó đối với lãi
suất danh nghĩa. Như vậy trong thời gian rất
ngắn, quy tắc lãi suất danh nghĩa cung cấp mô
tả tốt hơn về hành vi của NHTW so với quy tắc
lãi suất thực. Nhưng các NHTW lại xem xét
lại sự lựa chọn của họ về lãi suất danh nghĩa.
Khi họ quyết định có nên thay đổi mức lãi suất
danh nghĩa mục tiêu, họ sẽ thay đổi lạm phát
kỳ vọng; do đó họ đang quyết định làm thế
nào để thiết lập mức lãi suất thực1. Lý do thứ
hai cho giả định rằng NHTW thực hiện theo
một quy tắc lãi suất thực là tính đơn giản và sự
gắn kết của mô hình. Trong mô hình IS-LM,
vì lãi suất thực có l