Mối liên hệ giữa truyền thông bạo lực với sự phát triển nhân cách trẻ em

Trong bối cảnh xã hội hiện đại, truyền thông có một vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt đối với sự phát triển nhân cách của trẻ. Trẻ em ngày nay sinh hoạt trong một cuộc sống đầy những phức tạp. Cuộc sống của trẻ đã bị can thiệp và định hình bởi các phương tiện truyền thông đại chúng. Phương tiện này đang tấn công người đọc, người xem và người nghe một cách hết sức khéo léo, bằng những kỹ thuật truyền thông tiên tiến đến ngay cả người lớn cũng khó có thể cưỡng lại được sức quyến rũ của chúng. Ngoài tác dụng giải trí của các chương trình thì chiếm một phần không nhỏ các phương tiện truyền thông mà trẻ em tiếp nhận bao gồm cả những cảnh chết chóc, bạo lực, giết người, ám ảnh và tàn sát. Điều này có thể khiến cho quan điểm sống của trẻ bị lệch lạc. Do vậy chúng dễ cho rằng đa số những vấn đề trong cuộc sống phải được giải quyết bằng phương thức bạo động. Có thể nói, quá trình trưởng thành, phát triển nhân cách của trẻ chịu sự tác động của truyền thông bạo lực theo những xu hướng sau: một số trẻ có xu hướng giảm bớt tính bạo lực cá nhân, số khác lại bắt chước và gia tăng nhiều hơn những hành vi bạo lực trong cuộc sống mà trong đó phải nói đến cả những đứa trẻ vốn bẩm sinh có bản năng gây hấn từ trước. Nghiên cứu sẽ tập trung vào “mối liên hệ giữa truyền thông bạo lực với sự phát triển nhân cách trẻ em” theo các xu hướng trên.

doc12 trang | Chia sẻ: truongthanhsp | Lượt xem: 6402 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên hệ giữa truyền thông bạo lực với sự phát triển nhân cách trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang I. MỞ ĐẦU: Trong bối cảnh xã hội hiện đại, truyền thông có một vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt đối với sự phát triển nhân cách của trẻ. Trẻ em ngày nay sinh hoạt trong một cuộc sống đầy những phức tạp. Cuộc sống của trẻ đã bị can thiệp và định hình bởi các phương tiện truyền thông đại chúng. Phương tiện này đang tấn công người đọc, người xem và người nghe một cách hết sức khéo léo, bằng những kỹ thuật truyền thông tiên tiến đến ngay cả người lớn cũng khó có thể cưỡng lại được sức quyến rũ của chúng. Ngoài tác dụng giải trí của các chương trình thì chiếm một phần không nhỏ các phương tiện truyền thông mà trẻ em tiếp nhận bao gồm cả những cảnh chết chóc, bạo lực, giết người, ám ảnh và tàn sát. Điều này có thể khiến cho quan điểm sống của trẻ bị lệch lạc. Do vậy chúng dễ cho rằng đa số những vấn đề trong cuộc sống phải được giải quyết bằng phương thức bạo động. Có thể nói, quá trình trưởng thành, phát triển nhân cách của trẻ chịu sự tác động của truyền thông bạo lực theo những xu hướng sau: một số trẻ có xu hướng giảm bớt tính bạo lực cá nhân, số khác lại bắt chước và gia tăng nhiều hơn những hành vi bạo lực trong cuộc sống mà trong đó phải nói đến cả những đứa trẻ vốn bẩm sinh có bản năng gây hấn từ trước. Nghiên cứu sẽ tập trung vào “mối liên hệ giữa truyền thông bạo lực với sự phát triển nhân cách trẻ em” theo các xu hướng trên. II. THAO TÁC HOÁ KHÁI NIỆM: 1. Truyền thông (Communication) Là quá trình truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người với con người. (“Xã hội học báo chí” - Trần Hữu Quang – NXB Trẻ). 2. Bạo lực (Violence) Về nguồn gốc, có hai quan điểm khác nhau: quan điểm thứ nhất coi bạo lực là trạng thái tự nhiên của con người, bắt nguồn từ những dục vọng tự nhiên của con người (Hobbes). Quan điểm thứ hai coi bạo lực là một trạng thái xã hội, gắn liền với các trạng thái áp bức và bóc lột trên cơ sở chiếm đoạt tư liệu sản xuất xã hội. Khi các chế độ ấy mất đi thì cơ sở của bạo lực cũng mất đi. (Marx). Theo nghĩa thông thường bạo lực là dùng sức mạnh để giải quyết mọi tranh chấp giữa các bên đối địch nhau. Chiến tranh (gồm cả nội chiến) là hình thức bạo lực cao nhất. Các loại bạo lực: Bạo lực có vũ khí: những cảnh bắn nhau bằng súng đạn, chém giết nhau có sử dụng đao, kiếm Bạo lực không có vũ khí: những cảnh đánh nhau sử dụng võ thuật Va chạm (crash), vụ nổ (explosions) Ngôn từ bạo lực (lăng mạ, xúc phạm) 3. Truyền thông bạo lực (Violence media) Là quá trình truyền đạt những thông tin không lành mạnh, có tính bạo lực đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: báo chí, truyền hình, internet, truyện tranh Là công nghệ làm phim có tính chất bạo lực, là những kênh tin tức nói về kẻ giết người, bắt cóc, các vụ cướp những chương trình mà trẻ em thường tiếp xúc hàng ngày. Chúng đầu độc suy nghĩ của trẻ em, thanh niên và hướng đến những hành vi bạo lực. Chúng cũng kích thích sự điên cuồng khi cáu giận và hướng đến những hành vi chém giết. (www. Exampleessays.com) 4. Nhân cách: Theo Gail F. Huon (2001), Personality. In N. W. Bon& K.M.Mc Con key (Ed). Psychological Science. The McGraw – Hill Companies, Inc: “Nhân cách như là một cấu trúc phức hợp gồm các mặt tình cảm, nhận thức và hành vi, các mặt này cung cấp sự định hướng mạch lạc, chặt chẽ đối với cuộc sống của mỗi cá nhân.” Theo quan điểm của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện: “Nhân cách là toàn bộ những gì hợp thành một con người, một cá nhân với bản sắc và các tính rõ nét, với các đặc điểm thể chất (tạng), tài năng, phong cách, ý chí, đạo đức, vai trò xã hội. Nhân cách là một cá nhân có ý thức về bản thân đã tự khẳng định được, giữ được một phần nào tính nhất quán trong mọi hành vi.” (Nguồn: Từ điển Tâm lý học. Hà Nội 1995, trang 246) III. NỘI DUNG CHÍNH: 1. Thực trạng việc tiếp cận với truyền thông bạo lực của trẻ em hiện nay: Truyền thông hiện đại đã thu hút được thanh thiếu niên trên khắp thế giới bởi chính sức lan toả rộng khắp của nó tới từng gia đình. Nghiên cứu gần đây của tổ chức Gia đình Kaiser (2003) và của trung tâm chính trị quần chúng (2000) đã cho thấy sự chiếm ưu thế của các phương tiện truyền thông đại chúng trong các gia đình: “Tất cả các gia đình có trẻ em đều có ít nhất 1 chiếc TV, 1 đầu VCR hoặc DVD và đa số (từ 74 – 78%) gia đình hiện nay có đăng kí dài hạn truyền hình cáp hoặc truyền hình vệ tinh.” Trong phòng của trẻ em Mỹ từ 2 đến 17 tuổi đều có đầu chơi game (33 – 39%), VCR (30%), kết nối internet càng gia tăng (từ 15% năm 1996 lên tới 52% năm 2000). Theo Kaiser (2005), trẻ em độ tuổi từ 8 –18 dành nhiều thời gian hơn (44,5h/ tuần – 61/2 tiếng hàng ngày) trước máy tính, TV, màn hình trò chơi và phim ảnh hơn bất cứ hoạt động nào ngoài trường học và ngủ. Tiếp đó, ngày 24/05/2006, tổ chức Kaiser đã công bố cuộc khảo cứu mới nhất cho biết rằng nhiều phụ huynh còn khuyến khích con em mình sử dụng truyền hình. Trong số 1.051 người có con từ 6 tháng tuổi đến 6 tuổi tại Mỹ đã tham dự cuộc nghiên cứu và kết quả là: 83% trẻ em dưới 6 tuổi đã được cho phép sử dụng truyền thông trung bình 2h/ngày. Các nhà nghiên cứu Mỹ thuộc viện Psycho Association Task Force tính toán: nếu một em bé Mỹ xem TV 3h/ngày thì đến năm 12 tuổi chúng sẽ xem được 8000 cảnh giết người, hơn 100000 cảnh bạo hành trên TV! Quả là những con số đáng chú ý. Tại Việt Nam, chưa có một thống kê chính thức nào về thực trạng sử dụng các phương tiện truyền thông ở trẻ em nhưng thời gian gần đây, sự lên ngôi của nhiều phương tiện truyền thông hiện đại đặc biệt trong lĩnh vực vui chơi, giải trí đã tạo nên một bức tranh mới về đời sống thanh thiếu niên. Với nhiều gia đình Việt Nam hiện giờ, truyền hình cáp trở thành vô cùng phổ biến với các chương trình đa dạng, lôi cuốn; ngoài ra tỷ lệ gia đình có kết nối trực tuyến (internet) đã tăng lên hơn so với trước tạo cho giới trẻ vô vàn sự lựa chọn. Đi cùng theo đó là các thể loại video trò chơi, game online, thiết bị nghe nhạc tân tiến du nhập, chi phối thanh thiếu niên khá rõ nét. Chúng ta không phủ nhận những lợi ích mà phương tiện truyền thông mang lại cho con người nói chung và trẻ em nói riêng, nhưng sự xuất hiện quá nhiều, thường xuyên các cảnh bạo lực trên phương tiện truyền thông hiện nay cũng như việc lạm dụng quá mức các phương tiện đó sẽ mang lại những hậu quả khôn lường. 1.1 Bạo lực trên truyền hình & phim ảnh: Một vài thí nghiệm và nghiên cứu hơn nửa thế kỉ qua đã tìm hiểu xem những hành vi bạo lực bộc lộ trên phim ảnh hay TV có thể làm gia tăng hành vi hiếu chiến ở trẻ em trong thời gian ngắn hay không? Qua kết quả có được, có thể thấy giới trẻ hay xem cảnh bạo lực thì sau đó đều ít nhiều thể hiện các hành động, suy nghĩ, cảm xúc hung hăng hơn người không xem. Trong nghiên cứu về bạo lực trên truyền hình quốc gia (NTVS, 1998): 51% hành vi bạo lực trên TV không có sự đau đớn, 47% không gây hại và 34% được miêu tả là những tổn hại không có thực (thường chiếm ưu thế ở những chương trình của trẻ em như phim hoạt hình). Ngoài ra, trong tất cả cảnh bạo lực trên TV thì 86% là không có máu, chỉ có 16% chương trình bạo lực mô tả những hậu quả thực sự và lâu dài của bạo lực. Như thế vấn đề ở đây chính là việc đứa trẻ không thấy được những gì trên truyền hình chỉ là hư cấu, chúng sẽ bắt chước, phản ứng theo các nhân vật của phim ảnh, xa rời thực tế, nghiêm trọng hơn là không lường được hậu quả có thật sau đó. Điều này có thể giải thích theo ý kiến của các nhà tâm lý học: khi xem phim ảnh bạo lực, vai trò xúc cảm lớn hơn vai trò của lý luận khiến các em cứ “tiếp thu” mà không biết phân tích, đánh giá, nhận xét. Cũng từ đó mà trẻ trở nên thích gây gổ, hung hăng hơn với ông bà, cha me, bạn bè và những người khác khi yêu cầu của chúng không được đáp ứng Có thể tóm lại vài luận điểm chính về bạo lực trên truyền hình như sau: Bạo lực trên truyền hình tác động đến mọi lứa tuổi, giới tính, nhận thức đặc biệt ở trẻ em. Bạo lực trên truyền hình sẽ làm gia tăng các hành vi bạo lực và làm ảnh hưởng đến giá trị xã hội, đạo đức trong cuộc sống thường nhật. Việc thường xuyên xem các chương trình bạo lực trên TV sẽ đem lại những hậu quả tiêu cực đến thái độ và nhân cách của trẻ. Những đứa trẻ mà thường xuyên xem các chương trình bạo lực có xu hướng bộc lộ những hành vi hiếu chiến, hung hãn. 1.2 Game bạo lực: Video game lần đầu xuất hiện vào những năm 70 mới bước đầu mang hơi hướng bạo lực với những trò bắn phá đơn giản, nhưng dần dần kĩ thuật đồ hoạ phát triển vượt bậc, đến cuối thế kỉ XX thì các trò chơi đồ hoạ bạo lực luôn sẵn có dành cho mọi lứa tuổi, tất nhiên không trừ cả những trò chơi cho trẻ em. Năm 2000, hai nhà khoa học Craig Anderson & Karen Dill ở đại học Lowa State (Mỹ) đã thống kê được tỷ lệ phạm tội hành hung hoặc cướp giật và mức độ hiếu chiến rất cao ở những người chơi game bạo lực. Một nhóm nghiên cứu khác trên hơn 600 học sinh tuổi 13,14 cho biết các giáo viên nhận thấy những em chơi video game bạo lực thường hung hăng hơn, thích tranh cãi với những nhân vật quyền thế, có thiên hướng “nói chuyện bằng nắm đấm” với học sinh khác. Sau đó, những kết quả nghiên cứu được công bố tại hội nghị của Hiệp hội các nhà tâm lý Mỹ (APA) ngày 19/08/2005 cũng cho thấy: trò chơi video có cảnh bạo lực làm gia tăng thái độ hung hăng ở trẻ em và trẻ vị thành niên, nhất là con trai bởi “việc gây ra tội lỗi trong game mà không bị trừng phạt đã gieo vào đầu óc các em nhỏ ý nghĩ rằng bạo lực là cách giải quyết các xung đột” (nhà tâm lý học Elizabeth Carll). Game online mới du nhập vào Việt Nam được vài năm trở lại đây song thực sự nó đang trở nên rất thịnh hành đến mức khiến giới trẻ say mê thậm chí phải dùng cụm từ như “nghiện”. Người chơi game online tập trung ở độ tuổi 14 – 35 song nhiều nhất vẫn là lứa tuổi học sinh tò mò, hiếu động. Hầu hết các game cuốn hút người chơi đều có hình ảnh, nhân vật, nội dung rùng rợn, kích động bạo lực. Điều này tác động rất xấu đến tâm lý và lối hành xử của người chơi đặc biệt là trẻ em, khiến chúng dễ bị tiêm nhiễm thói hư tật xấu từ các trò chơi đó, mà khoảng cách từ suy nghĩ đến hành vi lại vô cùng mong manh. 1.3 Bạo lực qua internet: Internet - hệ thống thông tin toàn cầu dựa trên nền máy tính đang dần trở thành hình thức truyền thông phổ biến nhất, có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của con người. Bên cạnh những ích lợi bởi tính đa phương tiện, internet cũng ảnh hưởng đến hành vi bạo lực của giới trẻ qua các kênh khác nhau của nó như: phim ảnh, sách báo, game online, các câu chuyện lưu truyền phát tán qua mạngmang nội dung khiêu dâm và bạo lực. Theo một thống kê cho thấy trên mạng internet chỉ có khoảng 3 triệu trang web về chính trị nhưng có tới gần 20 triệu trang có liên quan đến sex, hơn 3 triệu trang liên quan đến rượu.. và chưa kể đến hàng trăm web liên quan tới các trò chơi bạo lực, chém giết, súng ống, bom và khủng bố cùng nhiều trang web về truyện tiếu lâm thô tục. Nguy cơ trẻ em đi lạc vào các trang web đó là rất lớn và thường xuyên. Điều tra mới đây của Viện văn hoá – thông tin tổ chức thì có tới 77,1% học sinh – sinh viên thừa nhận bị ảnh hưởng tiêu cực bởi những nội dung kích thích bạo lực, sex từ internet.Tuy chưa có minh chứng cụ thể nào về liên hệ giữa trò chơi bạo lực trên internet với tỷ lệ bạo lực trong giới thanh thiếu niên đang ngày càng gia tăng nhưng nếu để trẻ em tiếp xúc nhiều với bạo lực, chúng sẽ mất dần cảm xúc trước bạo lực, bản thân có hành vi bạo lực với bạn bè mà vẫn nghĩ là đang chơi. 1.4 Bạo lực qua sách báo, truyện tranh: Sự phát triển phổ biến của các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình, internet đã ảnh hưởng khá lớn tới nhu cầu và thị hiếu đọc sách của lớp trẻ, đặc biệt là lứa tuổi thiếu niên nhi đồng. Tuy nhiên trong dòng chảy trôi nổi của thị trường sách, sự xuất hiện, lan tràn của sách báo khiêu dâm, văn hoá phẩm đồi truỵ, kích động bạo lực ở nước ta những năm gần đây đã trở thành vấn đề khá nhức nhối của xã hội. Có thể nói, những loại sách báo đó mà song hành với năng lực cảm thụ kém, thụ động trong quá trình đọc sách sẽ có tác hại không nhỏ tới nhân cách đang trưởng thành của con người nhất là với trẻ nhỏ. Cùng với nỗi lo sách báo đồi truỵ là sự xuất hiện của vô vàn thể loại truyện tranh - vốn được coi là không thể thiếu được với trẻ em. Thực tế đáng lo ngại ở đây chính là những cuốn truyện đang dần bị lợi dụng, trục lợi với những nội dung lệch lạc, đầy rẫy bạo lực và sex, gây ảnh hưởng không tốt với sự phát triển nhân cách các em. Theo nghiên cứu thì có tới 80% độc giả nhí “nghiện” các truyện tranh đến từ Nhật Bản. Ở các nước phát triển, có hai loại truyện tranh: một dành cho người lớn từ 18 tuổi trở lên và một chỉ dành cho trẻ em, song khi truyện nước ngoài vào Việt Nam, nó không được kiểm duyệt cũng như giới hạn độ tuổi đọc truyện. Bởi thế mới có chuyện - truyện tranh của người lớn và những cảnh hôn hit, âu yếm, đánh đấm loạn xạ với “bùm, chát, rầm, roẹt, chíu” mà trẻ em ta lại “có cơ hội” tiếp cận, đọc nó như truyện dành cho mình. Và lời cảnh báo của các chuyên gia là không thừa chút nào: “Nếu trẻ cứ tiếp xúc nhiều với sách báo, truyện phim không lành mạnh thì sự phát triển của trẻ không hoàn thiện, thậm chí mắc một số bệnh như cuồng dâm, bạo lực tình dục” (bà Vân Anh – giám đốc trung tâm tư vấn Linh Tâm). 1.5 Bạo lực trong âm nhạc: Âm nhạc là món ăn tinh thần không thể thiếu với mỗi con người, đó cũng là một phần trong thế giới riêng của thanh thiếu niên. Sức ảnh hưởng của âm nhạc rất lớn với việc hình thành, phát triển nhân cách trẻ em.Một khảo sát tại Mỹ trong độ tuổi từ 14 – 16 ở 10 thành phố khác nhau cho kết quả: thanh thiếu niên nghe nhạc trung bình 40h/tuần. Dù chưa có nghiên cứu nào dẫn chứng chỉ ra mối liên hệ giữa ca từ bạo lực với hành vi hiếu chiến nhưng cũng đã cho thấy: việc yêu thích nhạc Rock Heavy metal có thể là một nguyên nhân chính dẫn đến sự xa lánh mọi người, rối loạn tâm lý, liều lĩnh, tự tử, sự rập khuôn trong tình dục hoặc có hành vi mạo hiểm trong suốt thời thơ ấu của đứa trẻ. Ca từ âm nhạc hiện đại ngày càng phát triển, gia tăng đặc biệt liên quan đến những vấn đề như ma tuý, giới tính, lòng thù ghét, rắc rối, bạo lực chống lại phụ nữ lan rộng và thể hiện rõ trong dòng nhạc thịnh hành trên khắp thế giới như hiphop, alternative rock. Tại Việt Nam, trào lưu nhạc trẻ đang được đông đảo lứa tuổi teen yêu thích, đón nhận nhưng những ca từ của nó thì cần phải được xem xét bởi có quá nhiều bất cập. Thứ nhất ca từ dài dòng, không có ý nghĩa, chỉ như lời đối thoại kiểu như “tại em mà tôi như thế”, “làm thế nào để tốt cho cả hai”. Ngoài ra, trong lời mỗi bài hát thuộc dòng nhạc thị trường ta đều bắt gặp sự tồn tại của thái độ tức giận, động từ mạnh mang tính bạo lực “không đau vì quá đau”, “xin đừng xát muối trái tim em”thể hiện lối sống bon chen, lý trí thiếu tỉnh táovô hình chung đã gieo vào lòng người nghe nhất là tuổi teen những trăn trở, bi quan, chán nản, bất mãn, khiến mảng tiêu cực có đất sống. 2. Ảnh hưởng của truyền thông bạo lực đến sự phát triển nhân cách trẻ em: Chúng ta biết rằng truyền thông bạo lực có ảnh hưởng tới mọi đối tượng, ở mọi lứa tuổi khác nhau nhưng những nhóm sau đây được coi là dễ bị tổn thương nhất: Trẻ em khoảng từ 7 – 8 tuổi trở xuống, vì nhóm tuổi này rất khó phân biệt được giữa sự tưởng tượng với hiện thực cuộc sống. Các bé trai, bởi hầu hết bạo lực trên truyền hình được thực hiện bởi nam giới, phần lớn thành công là nhờ bạo lực, các bé trai sẽ tìm hiểu làm thế nào để trở nên mạnh mẽ. Những đứa trẻ phải sống trong các gia đình có bạo lực. Những trẻ sử dụng hầu hết thời gian để xem truyền hình. Vậy những ảnh hưởng đó là như thế nào, chúng ta sẽ thấy rõ hơn dưới góc nhìn của hai lý thuyết quan trọng: lý thuyết phân tâm của Freud và lý thuyết hành vi. 2.1 Qua góc độ lý thuyết phân tâm - Freud Nhắc đến học thuyết phân tâm không thể không nhắc tới Sigmund Freud – người được coi là cha đẻ của học thuyết này. Từ nghiên cứu về chứng loạn thần kinh, sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ông đã hình thành học thuyết các cấp độ cơ bản của nhân cách chứa đựng những quan điểm độc đáo về sự tiến hoá của tâm lý và cấu trúc nhân cách. Freud coi bạo lực là trạng thái tự nhiên của con người bắt nguồn từ những dục vọng tự nhiên. Phân tâm học Freud cũng chứng minh những nguồn gốc bẩm sinh của xung đột cha- con bị kiềm chế từ bé (mặc cảm Odip). Theo ông, bên trong mỗi cá nhân luôn tiềm tàng những ham muốn, dục vọng, ham mê, bạo lực và được lưu giữ một cách vô thức. Họ có thể muốn thực hiện những ham muốn đó nhưng một nhân cách khoẻ mạnh không bày tỏ một cách công khai mà kìm hãm không cho nó được thể hiện. Thêm vào đó, các nhà phân tâm học cho rằng, mỗi chúng ta đều nội tâm hoá những tiêu chuẩn, giá trị xã hội mà chúng lại luôn ngăn cản sự bày tỏ những tình cảm thù địch. Do đó, các ham muốn này có xu hướng chuyển vào trong rồi ở bình diện vô thức biểu lộ thành sự bất lực, buồn chán. Trong cuộc sống, con người thỉnh thoảng vẫn rơi vào tâm trạng ấm ức, bị ức chế, dễ dẫn đến những hành vi khiêu khích và bạo động. Đối với đa số trẻ em cũng vậy, chúng mang trong mình tâm lý bạo động, nổi loạn, nhưng chúng biết cách dồn nén, cất giấu trong lòng mà không thể hiện ra ngoài cho người khác thấy được. Khi trẻ được tiếp xúc với các chương trình mang tính bạo lực, chúng sẽ cảm thấy được giải toả phần nào những cảm xúc bị dồn nén lâu ngày. Chính những phương tiện truyền thông bạo lực này ở một khía cạnh nào đó sẽ giúp trẻ em nói riêng, và chúng ta nói chung giảm được tình gây hấn của mình. Các nhà khoa học gọi đây là cơ chế đồng nhất. Nghĩa là những hình ảnh bạo lực trên các phương tiện truyền thông không phải là bạo lực thực tế, mà nó chỉ được diễn đạt thông qua các nhân vật được xây dựng nên mà thôi. Khi trẻ theo dõi những chương trình này nghĩa là trẻ được tham gia vào những cảnh bạo lực qua trí tưởng tượng của chính mình, điều này sẽ góp phần làm giảm tâm lý bạo động của cá nhân đứa trẻ, từ đó những hành vi bạo lực cũng được giảm đi. Ví dụ trong phim hoạt hình “Thuỷ thủ Popeye”, trẻ em có thể thấy nhiều cảnh bạo lực như cảnh anh chàng Pluto tấn công Popeye để chiếm đoạt được cô nàng Olive Oil, cảnh Popeye ăn rau chân vịt và trả đũa lại Pluto với những pha bạo lực kinh điển, vậy nhưng hầu như trẻ em vẫn yêu thích nhân vật Popeye hơn cả vì chúng cho rằng sự vùng dậy của chàng thuỷ thủ này với sự hỗ trợ của rau chân vịt đánh lại Pluto là công bằng, được chấp nhận, mang lại cho chúng cảm giác thoả mãn Có thể nói rằng, truyền thông bạo lực nhìn ở góc độ Freud có tác động tích cực bởi chúng tác động vào fần vô thức của đứa trẻ giúp giảm hành vi bạo lực ở trẻ em. 2.2 Qua góc độ lý thuyết hành vi: Trước đây, hành vi (behavior) được nghiên cứu kĩ lưỡng trong thuyết hành vi (behaviorism) rất phát triển ở Mỹ và chỉ tập trung vào phản ứng máy móc quan sát được của các cá nhân khi họ trả lời các kích thích., về sau quan điểm này đã dần thay đổi. Thuyết hành vi dần nhập cuộc cùng các cách tiếp cận khác trong nghiên cứu xã hội học, chứng tỏ hiệu quả rõ rệt của nó. Từ mô hình hành vi ban đầu gồm chuỗi kích thích - phản ánh: S à R, trong đó S là tác nhân (stimilus), R là phản ứng (reaction) của Watson cho tới mô hình mới với sự có mặt của các yếu tố trung gian (interverning variables), khái niệm hành vi dần mở rộng. Các nhà hành vi mới cho rằng yếu tố trung gian giữa tác nhân và phản ứng được chia thành 3 nhóm: hệ thống nhu cầu, hệ thống giá trị, tình huống thực hiện hành vi. G. Mead – nhà xã hội học người Mỹ đưa ra luận điểm về bản chất xã hội của hành vi con người “Hành vi xã hội không thể hiểu được nếu xây dựng nó từ các tác nhân và các phản ứng. Nó cần được phân tích như một chỉnh thể linh hoạt, không một bộ phận nào của chỉnh thể được phân tích hoặc có thể phân tích độc lập”. Theo đó, hai sự vật, hiện tượng tương tác với nhau bao giờ cũng để lại dấu ấn lên nhau (theo nhiều chiều, nhiều mức độ). Hành động của con người biến đổi trong quá trình tương tác thay đổi theo mô hình sau: S à M à R S: stimulus (kích thích); M (thao tác và nhận thức); R :reaction (phản ứng) Thuyết hành vi cho rằng chính các phương tiện truyền thông đại chúng là nguồn gốc phát sinh các hành vi bạo lực, có khả năng làm gia tăng ki
Tài liệu liên quan