Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 372 
MỐI LIÊN QUAN GIỮA BMI VÀ CÁC GIAI ĐOẠN COPD 
Hồ Thị Nhật An*, Hà Quốc Hưng*, Lưu Ngọc Mai*, Trần Khánh Vân*, Lê Thị Tuyết Lan **. 
TÓM TẮT 
Giới thiệu: trong thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu ở nước ngoài đã chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa BMI 
và bệnh COPD. Những người có BMI thấp thì có nguy cơ mắc bệnh COPD cao hơn. BMI cũng là một yếu tố 
góp phần tiên lượng khả năng tử vong của BN COPD. Tuy nhiên, trên bệnh nhân COPD ở Việt Nam liệu có 
hay không mối liên quan đó và xảy ra ở những nhóm bệnh nhân như thế nào, có những khác biệt gì so với thế 
giới? Vấn đề đó vẫn chưa được nghiên cứu nào làm sáng tỏ. 
Mục đích nghiên cứu: Khảo sát mối liên hệ giữa BMI và độ nặng bệnh COPD ở người Việt Nam. 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang 
Đối tượng: 221 bệnh nhân COPD (200 nam, 21 nữ) có tuổi từ 25 đến 93, đến khám chữa bệnh tại BVĐH 
Y dược từ năm 2005 đến năm 2007 
Kết quả: nghiên cứu chỉ ra rằng ở những bệnh nhân COPD là nam < 60 tuổi, nhóm BN COPD giai đọan 
IV có BMI thấp hơn những giai đọan nhẹ hơn và tương tự, nhóm bệnh nhân BMI <18.5 có chỉ số %postFEV1 
thấp nhất so với các nhóm còn lại. 
Kết luận: ở nhóm bệnh nhân COPD là nam <60 tuổi, bệnh nhân COPD giai đoạn IV có trung bình BMI 
thấp nhất và bệnh nhân COPD thiếu cân có mức độ nghẽn tắc phổi nặng nhất. 
Từ khóa: BMI: Body mass index(chỉ số khối cơ thể), BN: bệnh nhân, COPD: bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, 
BV ĐHYD: Bệnh viện ĐH Y dược. 
ASBTRACT 
ASSOCIATION BETWEEN BODY MASS INDEX AND STAGES OF CHRONIC OBSTRUCTIVE 
PULMONARY DISEASE 
Ho Thi Nhat An, Ha Quoc Hung, Luu Ngoc Mai, Tran Khanh Van, Le Thi Tuyet Lan 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 372– 377 
Background: Previous studies have documented the prognostic value of low body weight in patients with 
COPD and the correlation between BMI and lung capacity of COPD patients. However, until now, there is no 
study to study this correlation in Vietnamese COPD patients. Specifically, no one knows exactly this correlation 
presents or not and in which group of Vietnamese COPD patients. 
Study objective: to study the association between BMI and COPD stages in Vietnamese people. 
Design: Cross-sectional validation study 
Subjects: 221 COPD patients who ranged in age from 25 to 93 years old, treated at the Ho Chi Minh city 
University Medical Center from 2005 to 2007. 
Results: The study has shown that COPD patients in stage IV who are male and younger than 60 years old 
have lower BMI than those in other stages, and group with BMI <18.5 has the lowest %postFEV1. 
Conclusions: Among COPD patients who are male and younger than 60 years old, those in stage IV have 
*: Bộ môn Sinh Lý – Đại học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên hệ: Hồ Thị Nhật An, ĐT: 0909879088, Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 373
the lowest average BMI and those are underweight have the most severe pulmonary obstruction. 
Key words: BMI: Body mass index, BN: patient, COPD: Chronic obstructive disease, BV ĐHYD: Hospital 
of Medical University. 
GIỚI THIỆU 
COPD (Chronic obstructive pulmonary 
disease) – Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là 
bệnh có thể phòng ngừa và điều trị, được đặc 
trưng bởi sự tắc nghẽn đường dẫn khí nhỏ. Sự 
tắc nghẽn này thường tiến triển, có phục hồi 
một phần, có thể kết hợp với sự tăng đáp ứng 
của đường hô hấp. 
BMI (Body Mass Index) – chỉ số khối cơ thể 
được dùng để đánh giá mức độ gầy hay béo của 
một người, tính theo cân nặng và chiều cao bằng 
công thức: 
Một số nghiên cứu khoa học trên thế giới 
đã chỉ ra rằng có mối liên quan giữa BMI thấp 
và nguy cơ mắc bệnh COPD. Tuy nhiên, mối 
liên quan giữa BMI và chức năng phổi rất 
phức tạp và còn bị ảnh hưởng bởi một số yếu 
tố khác như tuổi, giới, tình trạng hút thuốc 
Raida J. Harik Khan và cộng sự đã báo cáo một 
công trình nghiên cứu khoa học cho thấy nguy 
cơ COPD tiến triển ở nam tỉ lệ nghịch với BMI 
sau khi đã hiệu chỉnh những yếu tố nguy cơ 
khác, bao gồm khói thuốc, tuổi, % FEV1 
predicted, béo phì và tình trạng giáo dục(5). 
Một nghiên cứu khác được thực hiện bởi một 
nhóm các nhà khoa học ở Copenhagen đã đi 
đến kết luận rằng BMI thấp là một yếu tố nguy 
cơ độc lập trên tỉ lệ tử vong ở những bệnh 
nhân COPD, và mối liên hệ đó rất rõ ràng ở 
những bệnh nhân COPD giai đoạn nặng(3). Tuy 
nhiên, trên bệnh nhân COPD ở Việt Nam vẫn 
chưa có nghiên cứu nào chứng tỏ liệu có hay 
không mối liên quan đó và xảy ra ở những 
nhóm bệnh nhân như thế nào, có những khác 
biệt gì so với thế giới? Nghiên cứu của chúng 
tôi nhằm khảo sát mối liên hệ giữa BMI và độ 
nặng bệnh COPD ở người Việt Nam. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 
221 bệnh nhân COPD (200 nam, 21 nữ) có tuổi 
từ 25 đến 93, đến khám chữa bệnh tại BVĐH Y 
dược từ năm 2005 đến năm 2007. Các số liệu 
được lấy ở lần đầu tiên BN đến khám. Mẫu thỏa 
điều kiện bệnh nhân bị bệnh COPD có 
FEV1/FVC<0,7, không mắc bệnh hen suyễn, có 
đầy đủ số liệu % PostFEV1, chiều cao, cân nặng, 
số liệu về việc hút thuốc lá hay không, giới tính 
và năm sinh.BMI và %PostFEV1 là các biến liên 
tục.Nghiên cứu sử dụng phần mềm thống kê 
SPSS 16.0 với phép kiểm ANOVA để tìm mối 
liên quan giữa các biến số. 
KẾT QUẢ 
Mẫu nghiên cứu 
Gồm 221 BN đã được chẩn đoán COPD 
kiểm chứng bởi kết quả hô hấp ký 
FEV1/FVC<0,7. 
Biểu diễn các số liệu theo biểu đồ ta có: 
Nhóm người này có các chỉ số tuổi, BMI và 
% postFEV1 trong bảng dưới đây: 
 Nam Nữ 
Tuổi 62,38 ± 15,34 67,01 ± 10,79 
BMI 21,50 ± 3,78 20,38 ± 3,69 
%postFEV1 0,47 ± 0,14 0,37 ± 0,15 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 374 
 Nam Nữ 
Hút thuốc lá 
Có hút>20gói-năm 86 3 
Có hút<20gói-năm 5 1 
Không hút 109 17 
Xét chung trên toàn mẫu nghiên cứu 
So sánh BMI giữa các nhóm giai đoạn COPD 
Giai đoạn IV có BMI thấp hơn có ý nghĩa so 
với các giai đoạn khác. 
So sánh chỉ số %PostFEV1 giữa các nhóm 
BMI 
Phân nhóm nghiên cứu thành 3 nhóm theo 
phân độ BMI châu Á để xét sự thay đổi của chỉ 
số %postFEV1. Ta thấy nhóm BMI <18,5 có 
%postFEV1 thấp hơn có ý nghĩa so với các nhóm 
BMI còn lại. 
Vậy bệnh nhân COPD giai đoạn IV có trung 
bình BMI thấp nhất và bệnh nhân COPD thiếu 
cân có mức độ nghẽn tắc phổi nặng nhất. Kết 
quả này chưa lọai trừ ảnh hưởng của tuổi, giới 
và việc hút thuốc lá. 
So sánh %PostFEV1 và BMI theo từng 
nhóm BN hút thuốc/không hút thuốc, 
nam/nữ, tuổi 
Trung bình %postFEV1 ở nhóm hút thuốc lá 
>20gói-năm là 0,36±0,14 nhỏ hơn trung bình 
%postFEV1 nhóm không hút thuốc lá 
(0,37±0,14). Khác biệt này không có ý nghĩa 
thống kê. Tương tự, cũng không có sự khác 
nhau có ý nghĩa về BMI giữa 2 nhóm này. 
 Khi xét đến các yếu tố tuổi, giới và tiền căn 
hút thuốc lá thì: nhóm nam có %postFEV1 thấp 
hơn có ý nghĩa so với nhóm nữ(p=0,004), nhóm 
tuổi <60 có trung bình %postFEV1và BMI cao 
hơn có ý nghĩa so với nhóm tuổi >60(p =0,009 
cho trung bình %PostFEV1, p=0,033 cho trung 
bình BMI). 
Xét sự tương quan giữa BMI và 
%postFEV1 trong từng nhóm đối tượng 
riêng lẻ phân theo giới, tiền căn hút thuốc 
và tuổi 
Xét theo từng nhóm tuổi 
Nhóm tuổi <60 tuổi: nhóm thiếu cân có 
trung bình %postFEV1 thấp hơn có ý nghĩa so 
với nhóm không thiếu cân, p=0,002. 
Nhóm tuổi >60 tuổi: không có mối tương 
quan giữa %postFEV1 và bậc BMI (thiếu cân- 
không thiếu cân). 
Xét trong từng nhóm giới tính 
Nam: nhóm thiếu cân có %postFEV1 nhỏ 
hơn có ý nghĩa so với nhóm nam không thiếu 
cân, p=0,002. 
Nữ: không còn mối tương quan giữa 
%postFEV1 và bậc BMI (thiếu cân- không thiếu 
cân) cũng như giữa BMI và giai đọan COPD. 
Xét trong từng nhóm hút thuốc/không hút 
thuốc 
Nhóm nam không hút thuốc lá: nhóm thiếu 
cân có trung bình %postFEV1 thấp hơn có ý 
nghĩa so với nhóm không thiếu cân. 
Nhóm nam hút thuốc lá: không có mối 
tương quan giữa %postFEV1 và bậc BMI (thiếu 
cân- không thiếu cân). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 375
Tóm lại, ở nhóm bệnh nhân < 60 tuổi và ở 
nhóm bệnh nhân nam, nhóm thiếu cân có 
trung bình %postFEV1 thấp hơn có ý nghĩa so 
với nhóm không thiếu cân. 
Xét tương quan giữa BMI và các giai đoạn 
COPD trên nhóm bệnh nhân COPD nam 
<60tuổi 
Trung bình BMI của nhóm bệnh nhân COPD 
giai đoạn IV thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm 
gồm các bệnh nhân COPD 3 giai đoạn còn lại (p 
= 0,025). 
Nhóm có BMI <18,5 có trung bình 
%PostFEV1 thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm 
BMI từ 18,5 – 23 (p = 0,034) và nhóm BMI >23 (p 
= 0,008). 
Xét hệ số tương quan và mối liên hệ hồi 
quy tuyến tính 
Hệ số tương quan r=0,181 với p=0,214 
(>0,05). Vậy ở BN COPD nam nhỏ hơn 60 tuổi, 
giữa BMI và chỉ số %Post FEV1 không có mối 
liên hệ tuyến tính. 
Tóm lại: nghiên cứu chỉ ra rằng ở những 
bệnh nhân COPD là nam < 60 tuổi, nhóm BN 
COPD giai đọan IV có BMI thấp hơn những giai 
đọan nhẹ hơn và tương tự, nhóm bệnh nhân 
BMI <18,5 có chỉ số %postFEV1 thấp nhất so với 
các nhóm còn lại. 
BÀN LUẬN 
Giải thích kết quả 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có một số 
điều đáng lưu ý về số bệnh nhân COPD trong 
mẫu nghiên cứu. Độ tuổi bị bệnh COPD có độ 
lệch rất rộng (nam 62±15,34, nữ 67±10,79). Trong 
khi đó, tỷ lệ BN đến khám lần đầu tiên vào giai 
đọan nặng và rất nặng là 80% ( giai đọan 3 là 
46% và giai đọan 4 là 34%). Điều này cảnh báo 
công tác phòng ngừa, tầm sóat phát hiện bệnh 
trong cộng đồng còn chưa tốt trong khi độ tuổi 
mắc COPD hiện nay ngày càng trẻ và còn trong 
độ tuổi lao động cống hiến cho xã hội. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 376 
BMI của nhóm bệnh nhân COPD này có độ 
lệch rộng (nam 21,5±3,78, nữ 20,38±3,69). Tuy 
nhiên, điều đáng chú ý là không ai có 
BMI>27,4( mức giới hạn cao nhất cho các bệnh 
lý đái tháo đường, tim mạch ở người châu 
Á) và có một phần đông bệnh nhân thiếu cân 
(72 người, chiếm 32%). Điều này cũng đặt ra 
vấn đề dinh dưỡng ở bệnh nhân COPD chưa 
được giải quyết tốt. 
Thuốc lá cũng là một vấn đề cần đặt ra khi 
tính toán thấy giữa 2 nhóm có hút thuốc và 
không hút thuốc, không thấy có sự khác biệt 
%Post FEV1. Điều này khó có thể xảy ra vì thuốc 
lá đã được xác định là yếu tố nguy cơ hàng đầu 
của bệnh COPD. Có thể giải thích điều này bằng 
giả thuyết BN đến khám không muốn khai hoặc 
khai sai việc hút thuốc lá. 
Nhóm tuổi lớn hơn 60 tuổi trong nghiên cứu 
của chúng tôi lại có BMI và %Post FEV1 thấp 
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân 
nhỏ hơn 60 tuổi. Điều này cũng đặt ra vấn đề 
dinh dưỡng có phần kém hơn và tình trạng bệnh 
COPD ở người Việt Nam nặng hơn ở người quá 
60 tuổi. 
Kết quả của nghiên cứu cho thấy BN COPD 
nam <60 tuổi, bệnh nhân COPD giai đoạn IV có 
trung bình BMI thấp nhất và bệnh nhân COPD 
thiếu cân có mức độ nghẽn tắc phổi nặng nhất. 
Kết quả này gợi ý mối tương quan nghịch giữa 
BMI và độ nặng của COPD, đặc biệt ở nhóm 
nam<60 tuổi. 
Thật sự, từ lâu,BMI thấp được cho là một 
yếu tố ảnh hưởng độc lập lên bệnh COPD và 
có khả năng tiên lượng tỷ lệ tử vong (7). Các 
nguyên nhân làm BMI thấp trên bệnh nhân 
COPD có thể được giải thích theo nhiều giả 
thuyết dựa trên một số các nghiên cứu đã 
được thực hiện trước đây: 
Đầu tiên là tình trạng suy dinh dưỡng – đây 
có thể là nguyên nhân chính của sự tăng trưởng 
kém trong thai kỳ. Trong một nghiên cứu thực 
hiện ở phòng thí nghiệm trên chuột và heo 
guinea, có bẳng chứng cho thấy dinh dưỡng 
kém trong thai kỳ và thời kỳ sau sinh sẽ dẫn đến 
những thay đổi chức năng và cấu trúc lâu dài ở 
phổi (4,6). Điều này có thể giúp ta nghĩ đến khả 
năng những người có cân nặng lúc mới sinh 
thấp có thể có nhiều nguy cơ bị COPD khi 
trưởng thành. 
Một cơ chế khác có thể giải thích mối liên 
quan giữa mức BMI thấp và sự tăng nguy cơ 
COPD ở nam trưởng thành là những bằng 
chứng về sự thiếu hụt trong miễn dịch qua trung 
gian tế bào và số lượng lympho T hiện diện 
trong máu tuần hoàn do suy dinh dưỡng có thể 
dẫn đến tình trạng tăng nhạy cảm với nhiễm 
khuẩn (2). Người ta cũng quan sát thấy rằng BMI 
thấp là một yếu tố nguy cơ mắc bệnh lao và các 
nhiễm khuẩn phổi mạn tính khác (9). 
Ảnh hưởng của dinh dưỡng kém lên chức 
năng phổi còn thể hiện một phần qua ảnh 
hưởng lên các cơ hô hấp (1). Một nghiên cứu 
cho rằng có mối liên quan giữa mức độ giảm 
chức năng phổi và mức độ sụt cân, và điều này 
giúp tiên lượng khả năng tử vong của bệnh 
nhân COPD. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ tử 
vong (được hiệu chỉnh theo tuổi) của nhóm 
nam BMI<21 cao gấp 4 lần nhóm nam tương 
ứng BMI từ 21-25 (tiêu chuẩn thế giới). Tỷ lệ 
này bằng 3,2 khi hiệu chỉnh thêm yếu tố hút 
thuốc lá(8). 
Vấn đề nhóm bệnh nhân trên 60 tuổi lại 
không có mối liên hệ giữa %Post FEV1 và 
BMI có thể do đa phần bệnh nhân ở độ tuổi 
này có BMI thấp và COPD vào giai đọan 
nặng (giai đọan 4 chiếm gần 30% và BMI 
thiếu cân chiếm gần 40%). Có thể BMI có mức 
giảm tối đa trên bệnh nhân COPD, đến một 
mức nào đó của %PostFEV1 thì bệnh nhân 
thiếu cân sẽ không giảm cân nữa. Tuy nhiên 
điều này chỉ là giả thuyết. 
Những vấn đề đặt ra 
Nghiên cứu còn có nhiều hạn chế như sai 
lệch thông tin khi thu thập về tiền căn hút thuốc 
lá của BN mà đây là 1 yếu tố nguy cơ quan trọng 
của bệnh COPD, ngòai ra nghiên cứu chưa xem 
xét đến những yếu tố nguy cơ khác của COPD 
như nghề nghiệp, tình trạng kinh tế xã hội, trình 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 377
độ học vấn. Phương pháp tiến hành nghiên cứu 
là phương pháp nghiên cứu cắt ngang và chỉ 
khảo sát trên những bệnh nhân bị COPD nên 
chưa thể đưa ra được mối liên quan nhân quả 
giữa BMI và COPD. Chúng tôi ghi nhận được ở 
nhóm BN COPD nam <60tuổi, bệnh nhân COPD 
giai đoạn IV có trung bình BMI thấp nhất và 
bệnh nhân COPD thiếu cân có mức độ nghẽn tắc 
phổi nặng nhất. Kết quả này gợi ý mối tương 
quan nghịch giữa BMI và độ nặng của COPD, 
đặc biệt ở nhóm nam<60 tuổi. Nguồn gốc của 
mối tương quan này còn chưa rõ ràng nhưng có 
thể gợi ý khả năng ngăn ngừa hay làm chậm 
tiến triển của bệnh COPD bằng cách can thiệp 
vào yếu tố thể trạng, trong đó quan trọng nhất là 
dinh dưỡng. Tuy nhiên, sự can thiệp này có thể 
chỉ có kết quả tốt khi bệnh nhân còn ở một độ 
tuổi nhất định. 
Nghiên cứu đã cho thấy trên BN COPD, độ 
nặng bệnh và BMI đã có mối liên quan nhất 
định. Câu hỏi đặt ra là nguy cơ COPD thật sự 
của người có BMI thấp<18,5 và nguy cơ bị 
COPD nặng hơn khi BMI của bệnh nhân giảm 
như thế nào? Thiết nghĩ, chúng ta nên có thêm 
những nghiên cứu mới theo hình thức nghiên 
cứu tốt hơn là tiền cứu hoặc hồi cứu theo dõi sát 
và lấy thông tin đối tượng liên quan đến COPD 
trực tiếp. Từ đó lập kế họach tăng cường thể 
trạng cho cộng đồng nhằm giảm thiểu tác hại 
của căn bệnh COPD. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arora NS, R. D. (1982). Effect of body weight and muscularity 
on human diaphragm muscle mass, thickness and area. J Appl 
Physiol, 52, 64-70. 
2. Chandra RK. (1980). Cell-mediated immunity in nutritional 
imbalance.. Fed Proc 39, 3088-3092. 
3. Charlotte Landbo, E. P., Peter Lange, Jørgen Vestbo, Thomas 
P. Almdal,. Prognostic Value of Nutritional Status in Chronic 
Obstructive Pulmonary Disease 
4. Lechner AJ. (1985). Perinatal age determines the severity of 
retarded lung development induced by starvation.. Am Rev 
Respir Dis, 131:638-643. 
5. Raida I. Harik-Khan, J. L. F. a. R. A. W. (2002). Body Mass 
Index and the Risk of COPD. CHEST, 121/2. 
6. Sahebjami H, M. J. (1985). The effects of starvation on lung 
mechanics and biochemistry in young and old rats. 
ApplPhysiol 58, 778-784. 
7. Schols AM, S. J., Volovics L, et al. (1998). Weight loss is a 
reversible factor in the prognosis of obstructive pulmonary 
disease. 1998; 157:1791-1797Am J Respir Crit Care Med, 157, 
1791-1797. 
8. Sharp DS, B. C., Curb JD, et al. (1997). The synergy of low 
lung function and low body mass index predicting all-cause 
mortality among older Japanese-American men. J Am Geriatr 
Soc, 45, 1464-1471. 
9. Waaler HT. (1984). Weight and mortality: the Norwegian 
experience.. Acta Med Scand, 215(suppl), 1-56.