Giới thiệu: trong thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu ở nước ngoài đã chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa BMI
và bệnh COPD. Những người có BMI thấp thì có nguy cơ mắc bệnh COPD cao hơn. BMI cũng là một yếu tố
góp phần tiên lượng khả năng tử vong của BN COPD. Tuy nhiên, trên bệnh nhân COPD ở Việt Nam liệu có
hay không mối liên quan đó và xảy ra ở những nhóm bệnh nhân như thế nào, có những khác biệt gì so với thế
giới? Vấn đề đó vẫn chưa được nghiên cứu nào làm sáng tỏ.
Mục đích nghiên cứu: Khảo sát mối liên hệ giữa BMI và độ nặng bệnh COPD ở người Việt Nam.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang
Đối tượng: 221 bệnh nhân COPD (200 nam, 21 nữ) có tuổi từ 25 đến 93, đến khám chữa bệnh tại BVĐH
Y dược từ năm 2005 đến năm 2007
Kết quả: nghiên cứu chỉ ra rằng ở những bệnh nhân COPD là nam < 60 tuổi, nhóm BN COPD giai đọan
IV có BMI thấp hơn những giai đọan nhẹ hơn và tương tự, nhóm bệnh nhân BMI <18.5 có chỉ số %postFEV1
thấp nhất so với các nhóm còn lại.
Kết luận: ở nhóm bệnh nhân COPD là nam <60 tuổi, bệnh nhân COPD giai đoạn IV có trung bình BMI
thấp nhất và bệnh nhân COPD thiếu cân có mức độ nghẽn tắc phổi nặng nhất.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 388 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên quan giữa BMI và các giai đoạn COPD, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 372
MỐI LIÊN QUAN GIỮA BMI VÀ CÁC GIAI ĐOẠN COPD
Hồ Thị Nhật An*, Hà Quốc Hưng*, Lưu Ngọc Mai*, Trần Khánh Vân*, Lê Thị Tuyết Lan **.
TÓM TẮT
Giới thiệu: trong thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu ở nước ngoài đã chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa BMI
và bệnh COPD. Những người có BMI thấp thì có nguy cơ mắc bệnh COPD cao hơn. BMI cũng là một yếu tố
góp phần tiên lượng khả năng tử vong của BN COPD. Tuy nhiên, trên bệnh nhân COPD ở Việt Nam liệu có
hay không mối liên quan đó và xảy ra ở những nhóm bệnh nhân như thế nào, có những khác biệt gì so với thế
giới? Vấn đề đó vẫn chưa được nghiên cứu nào làm sáng tỏ.
Mục đích nghiên cứu: Khảo sát mối liên hệ giữa BMI và độ nặng bệnh COPD ở người Việt Nam.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang
Đối tượng: 221 bệnh nhân COPD (200 nam, 21 nữ) có tuổi từ 25 đến 93, đến khám chữa bệnh tại BVĐH
Y dược từ năm 2005 đến năm 2007
Kết quả: nghiên cứu chỉ ra rằng ở những bệnh nhân COPD là nam < 60 tuổi, nhóm BN COPD giai đọan
IV có BMI thấp hơn những giai đọan nhẹ hơn và tương tự, nhóm bệnh nhân BMI <18.5 có chỉ số %postFEV1
thấp nhất so với các nhóm còn lại.
Kết luận: ở nhóm bệnh nhân COPD là nam <60 tuổi, bệnh nhân COPD giai đoạn IV có trung bình BMI
thấp nhất và bệnh nhân COPD thiếu cân có mức độ nghẽn tắc phổi nặng nhất.
Từ khóa: BMI: Body mass index(chỉ số khối cơ thể), BN: bệnh nhân, COPD: bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính,
BV ĐHYD: Bệnh viện ĐH Y dược.
ASBTRACT
ASSOCIATION BETWEEN BODY MASS INDEX AND STAGES OF CHRONIC OBSTRUCTIVE
PULMONARY DISEASE
Ho Thi Nhat An, Ha Quoc Hung, Luu Ngoc Mai, Tran Khanh Van, Le Thi Tuyet Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 372– 377
Background: Previous studies have documented the prognostic value of low body weight in patients with
COPD and the correlation between BMI and lung capacity of COPD patients. However, until now, there is no
study to study this correlation in Vietnamese COPD patients. Specifically, no one knows exactly this correlation
presents or not and in which group of Vietnamese COPD patients.
Study objective: to study the association between BMI and COPD stages in Vietnamese people.
Design: Cross-sectional validation study
Subjects: 221 COPD patients who ranged in age from 25 to 93 years old, treated at the Ho Chi Minh city
University Medical Center from 2005 to 2007.
Results: The study has shown that COPD patients in stage IV who are male and younger than 60 years old
have lower BMI than those in other stages, and group with BMI <18.5 has the lowest %postFEV1.
Conclusions: Among COPD patients who are male and younger than 60 years old, those in stage IV have
*: Bộ môn Sinh Lý – Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên hệ: Hồ Thị Nhật An, ĐT: 0909879088, Email: nhatan01@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 373
the lowest average BMI and those are underweight have the most severe pulmonary obstruction.
Key words: BMI: Body mass index, BN: patient, COPD: Chronic obstructive disease, BV ĐHYD: Hospital
of Medical University.
GIỚI THIỆU
COPD (Chronic obstructive pulmonary
disease) – Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là
bệnh có thể phòng ngừa và điều trị, được đặc
trưng bởi sự tắc nghẽn đường dẫn khí nhỏ. Sự
tắc nghẽn này thường tiến triển, có phục hồi
một phần, có thể kết hợp với sự tăng đáp ứng
của đường hô hấp.
BMI (Body Mass Index) – chỉ số khối cơ thể
được dùng để đánh giá mức độ gầy hay béo của
một người, tính theo cân nặng và chiều cao bằng
công thức:
Một số nghiên cứu khoa học trên thế giới
đã chỉ ra rằng có mối liên quan giữa BMI thấp
và nguy cơ mắc bệnh COPD. Tuy nhiên, mối
liên quan giữa BMI và chức năng phổi rất
phức tạp và còn bị ảnh hưởng bởi một số yếu
tố khác như tuổi, giới, tình trạng hút thuốc
Raida J. Harik Khan và cộng sự đã báo cáo một
công trình nghiên cứu khoa học cho thấy nguy
cơ COPD tiến triển ở nam tỉ lệ nghịch với BMI
sau khi đã hiệu chỉnh những yếu tố nguy cơ
khác, bao gồm khói thuốc, tuổi, % FEV1
predicted, béo phì và tình trạng giáo dục(5).
Một nghiên cứu khác được thực hiện bởi một
nhóm các nhà khoa học ở Copenhagen đã đi
đến kết luận rằng BMI thấp là một yếu tố nguy
cơ độc lập trên tỉ lệ tử vong ở những bệnh
nhân COPD, và mối liên hệ đó rất rõ ràng ở
những bệnh nhân COPD giai đoạn nặng(3). Tuy
nhiên, trên bệnh nhân COPD ở Việt Nam vẫn
chưa có nghiên cứu nào chứng tỏ liệu có hay
không mối liên quan đó và xảy ra ở những
nhóm bệnh nhân như thế nào, có những khác
biệt gì so với thế giới? Nghiên cứu của chúng
tôi nhằm khảo sát mối liên hệ giữa BMI và độ
nặng bệnh COPD ở người Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên
221 bệnh nhân COPD (200 nam, 21 nữ) có tuổi
từ 25 đến 93, đến khám chữa bệnh tại BVĐH Y
dược từ năm 2005 đến năm 2007. Các số liệu
được lấy ở lần đầu tiên BN đến khám. Mẫu thỏa
điều kiện bệnh nhân bị bệnh COPD có
FEV1/FVC<0,7, không mắc bệnh hen suyễn, có
đầy đủ số liệu % PostFEV1, chiều cao, cân nặng,
số liệu về việc hút thuốc lá hay không, giới tính
và năm sinh.BMI và %PostFEV1 là các biến liên
tục.Nghiên cứu sử dụng phần mềm thống kê
SPSS 16.0 với phép kiểm ANOVA để tìm mối
liên quan giữa các biến số.
KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu
Gồm 221 BN đã được chẩn đoán COPD
kiểm chứng bởi kết quả hô hấp ký
FEV1/FVC<0,7.
Biểu diễn các số liệu theo biểu đồ ta có:
Nhóm người này có các chỉ số tuổi, BMI và
% postFEV1 trong bảng dưới đây:
Nam Nữ
Tuổi 62,38 ± 15,34 67,01 ± 10,79
BMI 21,50 ± 3,78 20,38 ± 3,69
%postFEV1 0,47 ± 0,14 0,37 ± 0,15
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 374
Nam Nữ
Hút thuốc lá
Có hút>20gói-năm 86 3
Có hút<20gói-năm 5 1
Không hút 109 17
Xét chung trên toàn mẫu nghiên cứu
So sánh BMI giữa các nhóm giai đoạn COPD
Giai đoạn IV có BMI thấp hơn có ý nghĩa so
với các giai đoạn khác.
So sánh chỉ số %PostFEV1 giữa các nhóm
BMI
Phân nhóm nghiên cứu thành 3 nhóm theo
phân độ BMI châu Á để xét sự thay đổi của chỉ
số %postFEV1. Ta thấy nhóm BMI <18,5 có
%postFEV1 thấp hơn có ý nghĩa so với các nhóm
BMI còn lại.
Vậy bệnh nhân COPD giai đoạn IV có trung
bình BMI thấp nhất và bệnh nhân COPD thiếu
cân có mức độ nghẽn tắc phổi nặng nhất. Kết
quả này chưa lọai trừ ảnh hưởng của tuổi, giới
và việc hút thuốc lá.
So sánh %PostFEV1 và BMI theo từng
nhóm BN hút thuốc/không hút thuốc,
nam/nữ, tuổi
Trung bình %postFEV1 ở nhóm hút thuốc lá
>20gói-năm là 0,36±0,14 nhỏ hơn trung bình
%postFEV1 nhóm không hút thuốc lá
(0,37±0,14). Khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê. Tương tự, cũng không có sự khác
nhau có ý nghĩa về BMI giữa 2 nhóm này.
Khi xét đến các yếu tố tuổi, giới và tiền căn
hút thuốc lá thì: nhóm nam có %postFEV1 thấp
hơn có ý nghĩa so với nhóm nữ(p=0,004), nhóm
tuổi <60 có trung bình %postFEV1và BMI cao
hơn có ý nghĩa so với nhóm tuổi >60(p =0,009
cho trung bình %PostFEV1, p=0,033 cho trung
bình BMI).
Xét sự tương quan giữa BMI và
%postFEV1 trong từng nhóm đối tượng
riêng lẻ phân theo giới, tiền căn hút thuốc
và tuổi
Xét theo từng nhóm tuổi
Nhóm tuổi <60 tuổi: nhóm thiếu cân có
trung bình %postFEV1 thấp hơn có ý nghĩa so
với nhóm không thiếu cân, p=0,002.
Nhóm tuổi >60 tuổi: không có mối tương
quan giữa %postFEV1 và bậc BMI (thiếu cân-
không thiếu cân).
Xét trong từng nhóm giới tính
Nam: nhóm thiếu cân có %postFEV1 nhỏ
hơn có ý nghĩa so với nhóm nam không thiếu
cân, p=0,002.
Nữ: không còn mối tương quan giữa
%postFEV1 và bậc BMI (thiếu cân- không thiếu
cân) cũng như giữa BMI và giai đọan COPD.
Xét trong từng nhóm hút thuốc/không hút
thuốc
Nhóm nam không hút thuốc lá: nhóm thiếu
cân có trung bình %postFEV1 thấp hơn có ý
nghĩa so với nhóm không thiếu cân.
Nhóm nam hút thuốc lá: không có mối
tương quan giữa %postFEV1 và bậc BMI (thiếu
cân- không thiếu cân).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 375
Tóm lại, ở nhóm bệnh nhân < 60 tuổi và ở
nhóm bệnh nhân nam, nhóm thiếu cân có
trung bình %postFEV1 thấp hơn có ý nghĩa so
với nhóm không thiếu cân.
Xét tương quan giữa BMI và các giai đoạn
COPD trên nhóm bệnh nhân COPD nam
<60tuổi
Trung bình BMI của nhóm bệnh nhân COPD
giai đoạn IV thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm
gồm các bệnh nhân COPD 3 giai đoạn còn lại (p
= 0,025).
Nhóm có BMI <18,5 có trung bình
%PostFEV1 thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm
BMI từ 18,5 – 23 (p = 0,034) và nhóm BMI >23 (p
= 0,008).
Xét hệ số tương quan và mối liên hệ hồi
quy tuyến tính
Hệ số tương quan r=0,181 với p=0,214
(>0,05). Vậy ở BN COPD nam nhỏ hơn 60 tuổi,
giữa BMI và chỉ số %Post FEV1 không có mối
liên hệ tuyến tính.
Tóm lại: nghiên cứu chỉ ra rằng ở những
bệnh nhân COPD là nam < 60 tuổi, nhóm BN
COPD giai đọan IV có BMI thấp hơn những giai
đọan nhẹ hơn và tương tự, nhóm bệnh nhân
BMI <18,5 có chỉ số %postFEV1 thấp nhất so với
các nhóm còn lại.
BÀN LUẬN
Giải thích kết quả
Trong nghiên cứu của chúng tôi có một số
điều đáng lưu ý về số bệnh nhân COPD trong
mẫu nghiên cứu. Độ tuổi bị bệnh COPD có độ
lệch rất rộng (nam 62±15,34, nữ 67±10,79). Trong
khi đó, tỷ lệ BN đến khám lần đầu tiên vào giai
đọan nặng và rất nặng là 80% ( giai đọan 3 là
46% và giai đọan 4 là 34%). Điều này cảnh báo
công tác phòng ngừa, tầm sóat phát hiện bệnh
trong cộng đồng còn chưa tốt trong khi độ tuổi
mắc COPD hiện nay ngày càng trẻ và còn trong
độ tuổi lao động cống hiến cho xã hội.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 376
BMI của nhóm bệnh nhân COPD này có độ
lệch rộng (nam 21,5±3,78, nữ 20,38±3,69). Tuy
nhiên, điều đáng chú ý là không ai có
BMI>27,4( mức giới hạn cao nhất cho các bệnh
lý đái tháo đường, tim mạch ở người châu
Á) và có một phần đông bệnh nhân thiếu cân
(72 người, chiếm 32%). Điều này cũng đặt ra
vấn đề dinh dưỡng ở bệnh nhân COPD chưa
được giải quyết tốt.
Thuốc lá cũng là một vấn đề cần đặt ra khi
tính toán thấy giữa 2 nhóm có hút thuốc và
không hút thuốc, không thấy có sự khác biệt
%Post FEV1. Điều này khó có thể xảy ra vì thuốc
lá đã được xác định là yếu tố nguy cơ hàng đầu
của bệnh COPD. Có thể giải thích điều này bằng
giả thuyết BN đến khám không muốn khai hoặc
khai sai việc hút thuốc lá.
Nhóm tuổi lớn hơn 60 tuổi trong nghiên cứu
của chúng tôi lại có BMI và %Post FEV1 thấp
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân
nhỏ hơn 60 tuổi. Điều này cũng đặt ra vấn đề
dinh dưỡng có phần kém hơn và tình trạng bệnh
COPD ở người Việt Nam nặng hơn ở người quá
60 tuổi.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy BN COPD
nam <60 tuổi, bệnh nhân COPD giai đoạn IV có
trung bình BMI thấp nhất và bệnh nhân COPD
thiếu cân có mức độ nghẽn tắc phổi nặng nhất.
Kết quả này gợi ý mối tương quan nghịch giữa
BMI và độ nặng của COPD, đặc biệt ở nhóm
nam<60 tuổi.
Thật sự, từ lâu,BMI thấp được cho là một
yếu tố ảnh hưởng độc lập lên bệnh COPD và
có khả năng tiên lượng tỷ lệ tử vong (7). Các
nguyên nhân làm BMI thấp trên bệnh nhân
COPD có thể được giải thích theo nhiều giả
thuyết dựa trên một số các nghiên cứu đã
được thực hiện trước đây:
Đầu tiên là tình trạng suy dinh dưỡng – đây
có thể là nguyên nhân chính của sự tăng trưởng
kém trong thai kỳ. Trong một nghiên cứu thực
hiện ở phòng thí nghiệm trên chuột và heo
guinea, có bẳng chứng cho thấy dinh dưỡng
kém trong thai kỳ và thời kỳ sau sinh sẽ dẫn đến
những thay đổi chức năng và cấu trúc lâu dài ở
phổi (4,6). Điều này có thể giúp ta nghĩ đến khả
năng những người có cân nặng lúc mới sinh
thấp có thể có nhiều nguy cơ bị COPD khi
trưởng thành.
Một cơ chế khác có thể giải thích mối liên
quan giữa mức BMI thấp và sự tăng nguy cơ
COPD ở nam trưởng thành là những bằng
chứng về sự thiếu hụt trong miễn dịch qua trung
gian tế bào và số lượng lympho T hiện diện
trong máu tuần hoàn do suy dinh dưỡng có thể
dẫn đến tình trạng tăng nhạy cảm với nhiễm
khuẩn (2). Người ta cũng quan sát thấy rằng BMI
thấp là một yếu tố nguy cơ mắc bệnh lao và các
nhiễm khuẩn phổi mạn tính khác (9).
Ảnh hưởng của dinh dưỡng kém lên chức
năng phổi còn thể hiện một phần qua ảnh
hưởng lên các cơ hô hấp (1). Một nghiên cứu
cho rằng có mối liên quan giữa mức độ giảm
chức năng phổi và mức độ sụt cân, và điều này
giúp tiên lượng khả năng tử vong của bệnh
nhân COPD. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ tử
vong (được hiệu chỉnh theo tuổi) của nhóm
nam BMI<21 cao gấp 4 lần nhóm nam tương
ứng BMI từ 21-25 (tiêu chuẩn thế giới). Tỷ lệ
này bằng 3,2 khi hiệu chỉnh thêm yếu tố hút
thuốc lá(8).
Vấn đề nhóm bệnh nhân trên 60 tuổi lại
không có mối liên hệ giữa %Post FEV1 và
BMI có thể do đa phần bệnh nhân ở độ tuổi
này có BMI thấp và COPD vào giai đọan
nặng (giai đọan 4 chiếm gần 30% và BMI
thiếu cân chiếm gần 40%). Có thể BMI có mức
giảm tối đa trên bệnh nhân COPD, đến một
mức nào đó của %PostFEV1 thì bệnh nhân
thiếu cân sẽ không giảm cân nữa. Tuy nhiên
điều này chỉ là giả thuyết.
Những vấn đề đặt ra
Nghiên cứu còn có nhiều hạn chế như sai
lệch thông tin khi thu thập về tiền căn hút thuốc
lá của BN mà đây là 1 yếu tố nguy cơ quan trọng
của bệnh COPD, ngòai ra nghiên cứu chưa xem
xét đến những yếu tố nguy cơ khác của COPD
như nghề nghiệp, tình trạng kinh tế xã hội, trình
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 377
độ học vấn. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
là phương pháp nghiên cứu cắt ngang và chỉ
khảo sát trên những bệnh nhân bị COPD nên
chưa thể đưa ra được mối liên quan nhân quả
giữa BMI và COPD. Chúng tôi ghi nhận được ở
nhóm BN COPD nam <60tuổi, bệnh nhân COPD
giai đoạn IV có trung bình BMI thấp nhất và
bệnh nhân COPD thiếu cân có mức độ nghẽn tắc
phổi nặng nhất. Kết quả này gợi ý mối tương
quan nghịch giữa BMI và độ nặng của COPD,
đặc biệt ở nhóm nam<60 tuổi. Nguồn gốc của
mối tương quan này còn chưa rõ ràng nhưng có
thể gợi ý khả năng ngăn ngừa hay làm chậm
tiến triển của bệnh COPD bằng cách can thiệp
vào yếu tố thể trạng, trong đó quan trọng nhất là
dinh dưỡng. Tuy nhiên, sự can thiệp này có thể
chỉ có kết quả tốt khi bệnh nhân còn ở một độ
tuổi nhất định.
Nghiên cứu đã cho thấy trên BN COPD, độ
nặng bệnh và BMI đã có mối liên quan nhất
định. Câu hỏi đặt ra là nguy cơ COPD thật sự
của người có BMI thấp<18,5 và nguy cơ bị
COPD nặng hơn khi BMI của bệnh nhân giảm
như thế nào? Thiết nghĩ, chúng ta nên có thêm
những nghiên cứu mới theo hình thức nghiên
cứu tốt hơn là tiền cứu hoặc hồi cứu theo dõi sát
và lấy thông tin đối tượng liên quan đến COPD
trực tiếp. Từ đó lập kế họach tăng cường thể
trạng cho cộng đồng nhằm giảm thiểu tác hại
của căn bệnh COPD.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arora NS, R. D. (1982). Effect of body weight and muscularity
on human diaphragm muscle mass, thickness and area. J Appl
Physiol, 52, 64-70.
2. Chandra RK. (1980). Cell-mediated immunity in nutritional
imbalance.. Fed Proc 39, 3088-3092.
3. Charlotte Landbo, E. P., Peter Lange, Jørgen Vestbo, Thomas
P. Almdal,. Prognostic Value of Nutritional Status in Chronic
Obstructive Pulmonary Disease
4. Lechner AJ. (1985). Perinatal age determines the severity of
retarded lung development induced by starvation.. Am Rev
Respir Dis, 131:638-643.
5. Raida I. Harik-Khan, J. L. F. a. R. A. W. (2002). Body Mass
Index and the Risk of COPD. CHEST, 121/2.
6. Sahebjami H, M. J. (1985). The effects of starvation on lung
mechanics and biochemistry in young and old rats.
ApplPhysiol 58, 778-784.
7. Schols AM, S. J., Volovics L, et al. (1998). Weight loss is a
reversible factor in the prognosis of obstructive pulmonary
disease. 1998; 157:1791-1797Am J Respir Crit Care Med, 157,
1791-1797.
8. Sharp DS, B. C., Curb JD, et al. (1997). The synergy of low
lung function and low body mass index predicting all-cause
mortality among older Japanese-American men. J Am Geriatr
Soc, 45, 1464-1471.
9. Waaler HT. (1984). Weight and mortality: the Norwegian
experience.. Acta Med Scand, 215(suppl), 1-56.