Trái Đất là ngôi nhà chung của thế giới, là nơi sự sống con người được sinh sôi nảy nở. Sự phát triển mạnh mẽ và liên tục của các cuộc Cách mạng công nghiệp, Cách mạng khoa học kỹ thuật cùng với quá trình Công nghiệp hoá trong hơn 3 thế kỷ qua đã và đang làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc không chỉ bộ mặt của xã hội, loài người và cả tự nhiên. Những biến đổi đó một mặt đã thúc đẩy nền văn minh hiện đại tiến nhanh hơn bất kỳ một giai đoạn lịch sử nào trước đây, song, mặt khác, cũng đang bộc lộ tất cả những mâu thuẫn gay gắt chưa thể điều hoà được giữa sự tiến bộ của Khoa học, kỹ thuật và công nghệ với việc bảo vệ những điều kiện tự nhiên cần cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế cũng là sự suy thoái trầm trọng về môi trường sinh thái. Đó không còn là vấn đề của riêng một quốc gia nào mà giờ đây ô nhiễm môi trường, suy thoái sinh thái đã trở thành mối quan tâm, lo lắng của toàn nhân loại vì sự sống còn của thế giới.
Việt Nam tuy mới bước vào con đường phát triển kinh tế nhưng đã phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Từ thực tiễn nghiên cứu và giải quyết các vấn đề sinh thái của thời đại và trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay đã nảy sinh nhu cầu cấp thiết cần phải có một cơ sở lí luận - phương pháp luận chung làm nền tảng cho việc xem xét mối quan hệ giữa tự nhiên - con người - xã hội, đặc biệt là vai trò ngày càng to lớn của con người trong việc làm biến đổi tự nhiên.
Xuất phát từ góc độ Triết học, trên tinh thần của Triết học Mac - Lênin và cơ sở của những tri thức thời đại chúng ta sẽ có một có một cái nhìn bao quát, sâu sắc và toàn diện hơn đối với mối quan hệ giữa tự nhiên - con người - xã hội. Và vận dụng nó vào xem xét những điều kiện của thể ở Việt Nam.
Mong rằng tất cả những điều được trình bày trong tiểu luận dưới đây sẽ góp phần nâng cao nhận thức đối với vấn đề cấp thiết và nóng bỏng này, nhìn lại thực trạng của môi trường, tìm ra nguyên nhân và giải pháp cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, cùng nhau hướng tới phát triển bền vững không chỉ vì sự sống của chúng ta hôm nay, mà còn vì sự tồn tại và cơ hội phát triển tiếp tục của các thế hệ mai sau.
31 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 3880 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mối quan hệ giữa tự nhiên - Con người - xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trái Đất là ngôi nhà chung của thế giới, là nơi sự sống con người được sinh sôi nảy nở. Sự phát triển mạnh mẽ và liên tục của các cuộc Cách mạng công nghiệp, Cách mạng khoa học kỹ thuật cùng với quá trình Công nghiệp hoá trong hơn 3 thế kỷ qua đã và đang làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc không chỉ bộ mặt của xã hội, loài người và cả tự nhiên. Những biến đổi đó một mặt đã thúc đẩy nền văn minh hiện đại tiến nhanh hơn bất kỳ một giai đoạn lịch sử nào trước đây, song, mặt khác, cũng đang bộc lộ tất cả những mâu thuẫn gay gắt chưa thể điều hoà được giữa sự tiến bộ của Khoa học, kỹ thuật và công nghệ với việc bảo vệ những điều kiện tự nhiên cần cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế cũng là sự suy thoái trầm trọng về môi trường sinh thái. Đó không còn là vấn đề của riêng một quốc gia nào mà giờ đây ô nhiễm môi trường, suy thoái sinh thái đã trở thành mối quan tâm, lo lắng của toàn nhân loại vì sự sống còn của thế giới.
Việt Nam tuy mới bước vào con đường phát triển kinh tế nhưng đã phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Từ thực tiễn nghiên cứu và giải quyết các vấn đề sinh thái của thời đại và trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay đã nảy sinh nhu cầu cấp thiết cần phải có một cơ sở lí luận - phương pháp luận chung làm nền tảng cho việc xem xét mối quan hệ giữa tự nhiên - con người - xã hội, đặc biệt là vai trò ngày càng to lớn của con người trong việc làm biến đổi tự nhiên.
Xuất phát từ góc độ Triết học, trên tinh thần của Triết học Mac - Lênin và cơ sở của những tri thức thời đại chúng ta sẽ có một có một cái nhìn bao quát, sâu sắc và toàn diện hơn đối với mối quan hệ giữa tự nhiên - con người - xã hội. Và vận dụng nó vào xem xét những điều kiện của thể ở Việt Nam.
Mong rằng tất cả những điều được trình bày trong tiểu luận dưới đây sẽ góp phần nâng cao nhận thức đối với vấn đề cấp thiết và nóng bỏng này, nhìn lại thực trạng của môi trường, tìm ra nguyên nhân và giải pháp cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, cùng nhau hướng tới phát triển bền vững không chỉ vì sự sống của chúng ta hôm nay, mà còn vì sự tồn tại và cơ hội phát triển tiếp tục của các thế hệ mai sau.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA TỰ NHIÊN, CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI. SỰ LIÊN QUAN CỦA NÓ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề môi trường sinh thái, song cách tiếp cận của triết học cho phép chúng ta có một có một cách nhìn bao quát, sâu sắc và toàn diện hơn đối với mối quan hệ giữa tự nhiên, con người và xă hội. Sau đây là một số cơ sở lý luận và phương pháp luận để nghiên cứu xem xét mối quan hệ đó hay thực chất của vấn đề môi trường sinh thái.
I. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Thế giới cực kỳ phức tạp và đa dạng, được cấu thành từ nhiều yếu tố, song, suy cho cùng có ba yếu tố cơ bản: giới tự nhiên, con người và xã hội loài người. Ba yếu tố đó thống nhất với nhau trong một hệ thống “Tự nhiên - con người - xã hội”, vì rằng chúng là những dạng thức khác nhau, những trạng thái, những đặc tính và những quan hệ khác nhau của vật chất đang vận động.
I.1. Yếu tố tự nhiên.
Theo nghĩa rộng, tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Theo nghĩa này thì con người và xã hội loài người là những bộ phận không thể tách rời của tự nhiên. Đồng thời, tự nhiên còn được hiểu theo nhiều nghĩa hẹp khác nhau: là môi trường sinh thái, môi trường địa lý hay môi trường sống, v.v.. Song giới tự nhiên được xem xét ở đây là giới tự nhiên có liên quan trực tiếp đến sự sống con người - giới tự nhiên trong hệ thống “Tự nhiên - con người - xã hội”. Đó chính là sinh quyển.
Sinh quyển là sự thống nhất hữu cơ giữa sinh thể và những thành phần vô cơ và hữu cơ tham gia vào quá trình sống. Sinh quyển đã trải qua một quá trình tiến hoá lâu dài và phức tạp để tạo nên những bộ phận của nó. Có thể khái quát thành bốn giai đoạn chủ yếu như sau:
Giai đoạn một là giai đoạn xuất hiện những cơ thể đơn bào, trên cơ sở tổng hợp các chất hữu cơ có sẵn trong tự nhiên. Từ hoạt động sống của các cơ thể đơn bào đã hình thành nên chu trình sinh học đầu tiên - đó là dạng sơ khai nhất của sinh quyển.
Giai đoạn hai là giai đoạn các cơ thể đơn bào phát triển lên thành các cơ thể đa bào, theo hai hướng chính là động vật và thực vật. Sinh quyển và chu trình trao đổi chất trong nó ngày càng phức tạp và tiến đến hoàn thiện.
Giai đoạn ba được đánh dấu bằng sự xuất hiện của con người và xã hội loài người. Con người và xã hội trở thành những thành viên mới của chu trình sinh học.
Giai đoạn bốn là giai đoạn sinh quyển chuyển thành trí tuệ quyển. Trong giai đoạn này sự tiến hoá của sinh quyển không chỉ chịu sự tác động của các yếu tố tự nhiên - sinh học, mà còn chịu sự tác động mạnh mẽ của hoạt động có ý thức của con người.ý
I.2. Yếu tố con người.
Quá trình phát triển của của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo quy luật tiến hoá, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ động vật.
Sự ra đời của con người không chỉ là kết quả của các quy luật sinh học mà quan trọng hơn là kết quả của quá trình lao động. Đây là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên, khai thác và cải biến giới tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Chính trong quá trình lao động, cấu tạo cơ thể của con người ngày càng hoàn thiện hơn và cũng chính trong quá trình lao động, nhu cầu trao đổi, hợp tác đã làm cho ngôn ngữ xuất hiện. Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức. Do đó con người đã dần tự ý thức về mình, và dần tách mình ra khỏi thế giới động vật, cùng với môi trường tự nhiên vốn có, con người còn tạo ra cho mình một môi trường sống mới - môi trường xã hội hay môi trường tự nhiên đã được “người hoá”.
I.3. Yếu tố xã hội.
Tự nhiên theo quá trình phát triển của nó đã sinh ra con người, và từ sự hình thành con người gắn liền với sự hình thành các quan hệ giữa người với người, đã làm chuyển biến từ cộng đồng mang tính bầy đàn, hành động theo bản năng thành cộng đồng mới khác hẳn về chất, ta gọi đó là xã hội. Xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất. Hình thái vận động này lấy quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Do đó, xã hội là một bộ phận đặc biệt, được tách ra một cách hợp quy luật của tự nhiên.
Với tư cách là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, vừa là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa người và người để tồn tại và phát triển, xã hội vừa phải tuân theo những quy luật của tự nhiên, vừa phải tuân theo những quy luật chỉ vốn có đối với xã hội. Cũng như các quy luật tự nhiên, các quy luật xã hội mang tính khách quan.
Quy luật tự nhiên được hình thành xuyên qua vô số những tác động tự phát của các yếu tố tự nhiên, còn quy luật xã hội được hình thành trên cơ sở hoạt động có ý thức của con người. Xã hội là sản phẩm hoạt động của con người, mà tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều thông qua đầu óc của họ. Do vậy, có thể nói quy luật xã hội chẳng qua là quy luật con người theo đuổi mục đích của mình.
Quy luật xã hội mang tính tất yếu khách quan. Dù con người có nhận thức được hay không, có tự giác vận dụng hay không, thì quy luật xã hội vẫn luôn tác động ngoài ýý ýchí của con người. Khi con người chưa nhận thức và chưa vận dụng được thì chúng tác động như một lực lượng tự phát và biến con người thành nô lệ của tính tất yếu. Khi con người đã nhận thức được quy luật khách quan và những hoạt động điều kiện của chúng để vận dụng chúng vào các hoạt động có mục đích của mình, thì con người đạt đến tự do. Như vậy, tự do không có nghĩa là hành động tuỳ tiện, bất chấp quy luật, trái lại, tự do là nhận thức được quy luật và làm theo quy luật.
II. Sự tác động qua lại giữa tự nhiên - con người - xã hội
II.1. Vai trò của yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội trong hệ thống tự nhiên - xã hội.
Hệ thống tự nhiên - xã hội là một chỉnh thể trong đó những yếu tố tự nhiên và những yếu tố xã hội tác động qua lại lẫn nhau, quy định sự tồn tại và phát triển của nhau. Trong sự tác động qua lại giữa tự nhiên và xã hội, yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội, còn yếu tố con người và xã hội có vai trò ngày càng quan trọng và có tính quyết định đối với sự biến đổi của tự nhiên.
Tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội, vừa là môi trường tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người.
Là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vì xã hội được hình thành gắn liền với sự hình thành các quan hệ giữa người với người, và con người chính là con đẻ của tự nhiên, được hình thành trong quá trình tiến hoá của thế giới vật chất.
Là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống của con người như ánh sáng, nước, không khí, thức ăn... là những điều kiện cần thiết nhất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội như nguyên vật liệu xây dựng, tài nguyên, khoáng sản... là một trong những yếu tố cơ bản nhất của tồn tại xã hội.
Với tư cách là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội, tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất xã hội, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của chính bản thân xã hội.
Xã hội gắn bó với tự nhiên thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người, con người là nhân tố thực hiện sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên, đồng thời cũng là sự hiện thân của sự thống nhất đó. Trước hết đó là quá trình lao động sản xuất. Lao động là ranh giới phân biệt về chất giữa con người và con vật, giữa xã hội loài người và thế giới động vật. Song, cũng chính lao động là yếu tố đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa xã hội và tự nhiên. Bởi vì lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Vì vây, lao động, một mặt, càng tạo ra sự tách biệt giữa xã hội và tự nhiên bao nhiêu, thì mặt khác, lại làm cho xã hội gắn bó chặt chẽ hơn với tự nhiên bấy nhiêu.
Tự nhiên cung cấp cho con người tất cả các nguồn vật chất vốn có của sinh quyển để con người sống và tiến hành lao động sản xuất; nhưng cũng chính quá trình sử dụng các nguồn vật chất, con người đã làm biến đổi tự nhiên mạnh mẽ. Nếu con người không kiểm tra, điều tiết việc sử dụng, khai thác, bảo quản các nguồn vật chất của tự nhiên thì khủng hoảng sinh thái sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự nhiên - xã hội bị phá vỡ, sự sống của con người bị đe doạ. Chỉ mới gần đây, khi hậu quả của những hành động vô ý thức của con người đối với tự nhiên đã ảnh hưởng xấu đến sự tồn tại và phát triển của xã hội thì vấn đề môi trường mới được quan tâm và đang trở thành một trong những vấn đề toần cầu của thời đại.
II.2. Sự phụ thuộc của mối quan hệ giữa con người và tự nhiên vào trình độ phát triển của xã hội.
Tự nhiên và xã hội đều có một quá trình lịch sử lâu dài và phức tạp.Sự xuất hiện con người và xã hội loài người là kết quả của một quá trình tiến hoá lâu dài, liên tục của tự nhiên. Từ khi xuất hiện con người và xã hội loài người, lịch sử phát triển của tự nhiên không chỉ phụ thuộc vào sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố tự nhiên, mà còn chịu sự chi phối mạnh mẽ và sâu sắc của các yếu tố xã hội. Ngược lại sự phát triển của lịch sử xã hội không thể tách rời các yếu tố tự nhiên, bởi vì, chỉ có trong mối quan hệ với tự nhiên và quan hệ với nhau con người mới làm nên lịch sử của mình. Nhưng chính quá trình quan hệ với giới tự nhiên con người đã cải biến giới tự nhiên. Thông qua hoạt động của mình con người làm cho lịch sử xã hội và lịch sử tự nhiên gắn bó lẫn nhau, quy định lẫn nhau. Sự gắn bó và quy định lẫn nhau đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội mà tiêu chí để đánh giá nó là phương thức sản xuất - cách thức sản xuất ra của cải vật chất trong mỗi giai đoạn nhất định của con người. Bất kỳ một phương thức sản xuất nào cũng bao gồm hai mối quan hệ cơ bản: quan hệ giữa con người với tự nhiên - lực lượng sản xuất và quan hệ giữa con người với với con người - quan hệ sản xuất. Hai mối quan hệ này cùng đồng thời tồn tại, vận động và phát triển cùng với sự vận động và phát triển của lịch sử. Mỗi phương thức sản xuất nhất định trong lịch sử là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất. Trong suốt quá trình phát triển của xã hội, lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi và hoàn thiện dần. Sự ra đời những phương thức sản xuất mới cao hơn những phương thức sản xuất trước đó đã quyết định những chuyển biến về chất của xã hội loài người, đưa xã hội loài người từ cuộc sống mông muội, dã man sang văn minh, hiện đại với các nền văn minh kế tiếp nhau: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp hay văn minh trí tuệ. Cũng chính phương thức sản xuất quy định tính chất của mối quan hệ giữa xã hội với tự nhiên vì mỗi phương thức sản xuất khác nhau sẽ có những công cụ lao động khác nhau để khai thác giới tự nhiên, sẽ có những mục đích tiến hành sản xuất khác nhau. Khi công cụ lao động thay đổi, khi mục đích tiến hành sản xuất của mỗi chế độ xã hội thay đổi thì tính chất của mối quan hệ giữa xã hội với tự nhiên cũng thay đổi.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua các cuộc cách mạng lực lượng sản xuất. Trong lịch sử phát triển của loài người cho đến nay đã trải qua ba cuộc cách mạng lực lượng sản xuất. Các cuộc cách mạng này không chỉ làm thay đổi và hoàn thiện dần bộ mặt của xã hội loài người, đưa sự phát triển của xã hội từ trình độ thấp lên trình độ cao dần, mà còn làm thay đổi không ngừng tính chất của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Cuộc cách mạng lực lượng sản xuất lần thứ nhất - tìm ra lửa, con người bắt đầu tự khẳng định mình như một chủ thể, còn tự nhiên là đối tượng để con người tác động. Con người chủ yếu hái, lượm, săn bắn những thứ có sẵn của tự nhiên. Đây là giai đoạn con người sống phụ thuộc vào tự nhiên, do vậy sinh quyển vẫn giữ nguyên vẻ thuần khiết hoang sơ vốn có của nó.
Cuộc cách mạng lực lượng sản xuất lần thứ hai đã dẫn con người từ thời kỳ đồ đá sang nền văn minh nông nghiệp, với sự ra đời của công cụ bằng kim loại. Trong giai đoạn này con người đã bắt đầu khai thác tự nhiên một cách chủ động và tích cực hơn như khai thác đất để trồng trọt, thuần dưỡng động thực vật...song do công cụ lao động vẫn còn thô sơ, do vậy mà môi trường không co nhiều thay đổi đáng kể.
Cuộc cách mạng lực lượng sản xuất lần thứ ba với sự ra đời của máy hơi nước đã đánh dấu bước chuyển của xã hội từ văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp. Với công cụ sản xuất là cơ khí máy móc, mức độ khai thác của con người ngày càng mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn. Ngày nay, con người đã đạt đến đỉnh cao trong sản xuất là nền đại công nghiệp cơ khí tự động hoá, nhưng dưới chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thì con người coi tự nhiên không chỉ là môi trường sống mà chủ yếu là đối tượng để khai thác, chiếm đoạt nhằm đạt được mục đích của mình.
Như vậy, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền văn minh công nghiệp, biểu hiện ở trình độ phát triển cao của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, sự tiến bộ của xã hội cũng diễn ra nhanh chóng chưa từng thấy, và đồng thời với quá trình đó là sự đối lập ngày càng gay gắt giữa con người, tự nhiên, và sự suy thoái trầm trọng của môi trường.
II.3. Sự điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
Mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên được thể hiện qua hoạt động có ý thức của con người. Song, “tất cả những gì thúc đẩy con người hành động phải thông qua đầu óc họ”, bởi vậy, mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên, ngoài phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội còn phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là việc nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó trong hoạt động thực tiễn.
Hoạt động sản xuất ra của cải của con người là hoạt động chinh phục tự nhiên. Hoạt động này có thể làm giới tự nhiên biến đổi theo hai hướng. Nếu con người tác động vào giới tự nhiên đúng quy luật của nó thì con người tạo ra “thiên nhiên thứ hai” hài hoà đối với sự phát triển của xã hội. Ngược lại, nếu con người bất chấp quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái có sẵn trong tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự nhiên và việc phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội là điều tất yếu. Ph.ăngghen đã nhắc nhở: “Không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì, cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần thiên nhiên trả thù lại chúng ta”. Con người tàn phá giới tự nhiên bao nhiêu thì con người phải gánh chịu hậu quả bấy nhiêu. “Chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược đi thống trị một dân tộc khác... tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác.”
Việc nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và sử sụng những quy luật đó một cách có hiệu quả vào những hoạt động thực tiễn của xã hội, mà quan trọng nhất là vào lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất vừa là tiền đề, vừa là từng bước thực hiện việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên. Để làm được điều đó, trước hết cần thay đổi nhận thức của con người về mọi phương diện thuộc lĩnh vực mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau giữa con người (xã hội) và tự nhiên. Từ sự thay đổi về nhận thức, con người sẽ có những hành động thiết thực nhằm bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường sinh thái vì sự sống của con người và sự phát triển lâu bền của xã hội.
CHƯƠNG 2.
VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM
Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề cấp toàn cầu của thời đại. Nó là mối quan tâm, lo lắng của toàn nhân loại. Mỗi một quốc gia trên thế giới không chỉ mang những sắc thái riêng về văn hoá mà cả về sinh thái. Và Việt Nam với tư cách là một thành viên của thế giới, chúng ta cũng có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề chung, mà cụ thể ở đây là vấn đề môi trường sinh thái. Để có thể làm được được điều đó trước hết chúng ta phải xuất phát từ thực tiễn đất nước mình. Với những cơ sở lý ýluận đã nêu ở phần trên, tôi muốn vận dùng để xem xét vấn đề môi trường sinh thái của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Bởi vì môi trường sinh thái của Việt Nam cũng có những nét đặc thù, không giống hoàn toàn với một nước nào, để từ đó có cái nhìn tổng quát về thực trạng, tìm ra nguyên nhân và có những phương sách giải quyết phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
I. Thực trạng môi trường sinh thái ở Việt Nam và nguyên nhân của thực trạng đó.
Vấn đề môi trường sinh thái là vấn đề thuộc lĩnh vực quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau giữa con người, xã hội và tự nhiên. Do đó khi xem xét về vấn đề môi trường sinh thái của một quốc gia, không thể chỉ chú ýýý đến các điều kiện thiên nhiên, mà còn phải đặc biệt quan tâm đến chế độ chính trị, đến điều kiện kinh tế - xã hội và cả truyền thống văn hoá.
Đối với nước ta, khi xem xét hiện trạng và đặc điểm của môi trường sinh thái cần phải xuất phát từ mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình tác động qua lại của con người và tự nhiên trong điều kiện của một nước còn chậm phát triển, nhưng lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố hiện đại như kỹ thuật, công nghệ kinh tế thị trường, và cả những yếu tố truyền thống văn hoá dân tộc như quan niệm của con người về tự nhiên, về mối quan hệ của họ với tự nhiên. Chính các quan niệm đó là một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên các các mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên trong quá trình khai thác và sử dụng thiên nhiên trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
Lãnh thổ Việt Nam kéo dài suốt sườn Đông và sườn Nam Bán đảo Đông Dương, chiếm một phần lớn diện tích bán đảo này và nằm ở vị trí trung tâm Đông Nam A. Việt nam nằm trên vòng đai địa hoá Thái Bình