Khmer possess a wealth of lullabies rich in content and diversified in art performing.
Currently, protection, preservation and development of Khmer lullabies has become a crucial task.
The introduction of Khmer lullabies into school activities does not only contribute to the
affirmation of the musical values in Khmer folk music treasures but also preserves and fosters
cultural value of Khmer in our national art. The article proposes some measures to introduce Khmer
lullabies into main courses at ethnic minority boarding schools in Tra Vinh Province
Keywords: Lullaby, folk music, Khmer people.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 509 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số biện pháp đưa hát ru Khmer Nam Bộ vào các trường phổ thông dân tộc nội trú ở tỉnh Trà Vinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 443 (Kì 1 - 12/2018), tr 37-41; 53
37
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐƯA HÁT RU KHMER NAM BỘ
VÀO CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ Ở TỈNH TRÀ VINH
Võ Thị Ngọc Kiều - Trường Đại học Trà Vinh
Ngày nhận bài: 20/10/2018; ngày sửa chữa: 22/10/2018; ngày duyệt đăng: 26/10/2018.
Abstract: Khmer possess a wealth of lullabies rich in content and diversified in art performing.
Currently, protection, preservation and development of Khmer lullabies has become a crucial task.
The introduction of Khmer lullabies into school activities does not only contribute to the
affirmation of the musical values in Khmer folk music treasures but also preserves and fosters
cultural value of Khmer in our national art. The article proposes some measures to introduce Khmer
lullabies into main courses at ethnic minority boarding schools in Tra Vinh Province
Keywords: Lullaby, folk music, Khmer people.
1. Mở đầu
Âm nhạc dân gian có sức sống mãnh liệt, có sự ảnh
hưởng rộng lớn trong đời sống văn hóa xã hội của mỗi
dân tộc. Nên dù có phải trải qua bao biến thiên của lịch
sử, âm nhạc dân gian vẫn mang ý nghĩa lớn lao trong việc
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; là một trong
các yếu tố cần thiết để định hình một thị hiếu thẩm mĩ
lành mạnh,... Điều này có được là do bởi sự trường tồn
của nó trong tâm thức của mỗi người dân. Cũng như rất
nhiều các dân tộc khác trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam, người Khmer Nam Bộ có một kho tàng âm nhạc
dân gian phong phú, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, văn
học và nghệ thuật. Đối với người Khmer, âm nhạc dân
gian có sức sống bền bỉ, mãnh liệt. Nó có môi trường diễn
xướng rất đa dạng với các lễ hội dân gian, với đời sống
sinh hoạt văn hóa cộng đồng và tín ngưỡng tôn giáo vô
cùng phong phú; và trước sự tấn công của những loại
hình âm nhạc hiện đại, âm nhạc dân gian Khmer vẫn giữ
nguyên giá trị và ngày càng khẳng định được vai trò của
nó trong đời sống đồng bào phum sóc.
Trong nỗ lực chung của cả xã hội, các nhà khoa học
đã có những cố gắng trong việc sưu tầm, tìm hiểu, giới
thiệu những kết quả nghiên cứu về âm nhạc dân gian
Khmer đến với cộng đồng. Trong đó, hát ru Khmer Nam
Bộ được đặc biệt quan tâm, bởi số lượng, vai trò của nó
trong kho tàng âm nhạc dân gian Khmer và hơn hết là âm
hưởng dân tộc, giá trị văn hóa Khmer hàm chứa trong mỗi
lời ru, trong các làn điệu ngân nga và tấm lòng của người
ru lẫn người được ru. Nghiên cứu hát ru Khmer từ các góc
độ không chỉ góp phần khẳng định các giá trị âm nhạc,
văn hóa trong kho tàng âm nhạc dân gian Khmer mà còn
qua đó góp phần lưu giữ và phát huy giá trị của thể loại
hát ru Khmer đối với nền nghệ thuật nước nhà. Vì vậy,
chúng tôi đề xuất các biện pháp đưa hát ru Khmer vào các
hoạt động dạy học chính khóa và ngoại khóa vào các
trường trung học phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Trà Vinh.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Vấn đề quan niệm và khai thác tư liệu hát ru
Khmer Nam Bộ
Xét trên bình diện tổng thể thì sự tiếp xúc văn hóa
giữa các tộc người trên đất nước Việt Nam là sự tiếp xúc
văn hóa trong hòa bình, sự tiếp biến văn hóa có chọn lọc.
Chính điều này đã làm cho nền văn hóa Việt Nam vừa đa
dạng, phong phú lại vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Do đặc
điểm cư trú đan xen, quá trình giao lưu văn hóa giữa các
tộc người ở Nam Bộ diễn ra khá mạnh mẽ. Người Khmer
Nam Bộ có lịch sử cộng cư hoà hợp, gần gũi, gắn bó với
các tộc người Kinh, Hoa,... trên vùng đất Nam Bộ.
Nhưng với người Khmer, những giá văn hóa nghệ thuật
của dân tộc có tầm ảnh hưởng, sức lan tỏa lớn đến từng
cá thể nên các giá trị văn hóa của Khmer vẫn được bảo
lưu tốt.
Hát ru là một thể loại đặc biệt trong kho tàng âm nhạc
dân gian. Những làn điệu hát ru thường là các bài hát
nhẹ nhàng, đơn giản và phần lớn đều có xuất xứ từ ca
dao, đồng dao, hò vè dân gian, các loại thơ,... được
truyền từ đời này qua đời khác; còn hát ru Khmer thì có:
“giai điệu dìu dặt, do những câu nhạc ngắn được tổ
chức lại xuất hiện chậm rãi và êm ái. Kết cấu của lời hát
ru thường mở đầu bằng một câu “Con ơi ngủ đi”, “Út
ơi ngủ đi đừng khóc”, hoặc “Cháu ơi đừng khóc đừng
la”,... Với mục đích thực tiễn là hát để ru đứa trẻ ngủ,
nội dung hát ru Khmer thường là lời tâm tình ngọt ngào
hay lời dặn dò thân ái của người ru đối với con, cháu,
hoặc em” [1; tr 139]. Trong Hôn nhân và gia đình người
Khmer Nam Bộ (2012), Nguyễn Hùng Khu cho rằng:
“Tới nay, người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long còn
lưu giữ một kho tàng hát ru với những khúc hát trữ tình,
nên thơ nói về quan hệ lứa đôi hòa vào cảnh thiên nhiên
mênh mông, làm cho màu sắc tình yêu càng đậm đà và
lãng mạn. Kết cấu lời hát ru luôn được mở đầu: “Con
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 443 (Kì 1 - 12/2018), tr 37-41; 53
38
ơi...”, “út ới...”. Giai điệu hát ru của người Khmer
thường chậm rãi, ngắn và êm ái với nội dung là lời tâm
tình ngọt ngào, thân ái”[2; tr 41]. Những nội dung này
làm nên nội dung và giá trị của các bài hát ru trong đời
sống văn hóa gia đình của người Khmer. Ngoài chức
năng thực hành cụ thể thì hát ru Khmer còn gửi gắm
truyền thống hiếu học, tình yêu gia đình, quê hương, yêu
lao động,... của biết bao thế hệ người Khmer. Vì vậy, hát
ru Khmer không chỉ mang hơi thở của một khúc ca tâm
tình mà còn mang hơi hướng của gia huấn ca, một loại
sách dạy làm người của người Khmer.
Giống như tình hình sưu tầm, nghiên cứu các thể loại
dân ca khác, hát ru Khmer Nam Bộ đã được quan tâm
sưu tầm, phổ biến tuy chưa thật sự đầy đủ và rộng rãi
nhưng với nguồn tư liệu hiện có, vẫn có thể khẳng định
tiếng nói riêng, bản sắc thể loại của hát ru Khmer. Ngoài
những đặc điểm chung của thể loại hát ru, hát ru Khmer
còn có những dấu ấn riêng về văn hóa nghệ thuật, những
điều đã tạo nên sức hấp dẫn mãnh liệt của hát ru Khmer
đối với các nhà nghiên cứu. Năm 2004, nhạc sĩ Nguyễn
Văn Hoa, sau 30 năm lặn lội khắp các vùng miền Tây
Nam Bộ, đã sưu tầm và xuất bản công trình 100 làn điệu
dân ca Khmer gồm 02 tập. Công trình đã kí âm, phiên
âm và dịch ra tiếng Việt góp phần đáng kể cho việc giới
thiệu và phổ biến dân ca của người Khmer Nam Bộ đến
với công chúng. Ngoài ra, còn phải kể đến nguồn tư liệu
hát ru Khmer từ công trình Văn học dân gian Sóc Trăng
(2002), Văn học dân gian Bạc Liêu (2005) của Chu Xuân
Diên chủ biên, Dân ca Trà Vinh (2004) của Nguyễn Trúc
Phong chủ biên. Trong những năm gần đây, các luận văn,
luận án, các bài báo nghiên cứu về dân ca Khmer Nam
Bộ được ra đời nhiều hơn, với nhiều cách tiếp cận mới
mẻ. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về dân ca
Khmer nói chung, hát ru Khmer nói riêng đã được công
bố thường nghiêng về lịch sử, văn hóa hay đi sâu về vấn
đề âm nhạc. Một số tác phẩm khác có tính nhỏ lẻ hoặc
chỉ là những công trình sưu tầm, giới thiệu ca từ của các
bài dân ca Khmer. Ngoài ra, hiện chưa có công trình nào
về hát ru Khmer được nghiên cứu, nhất là nghiên cứu để
đưa hát ru Khmer vào trong nhà trường.
2.2. Đặc điểm và ý nghĩa của việc đưa hát ru Khmer
vào các trường phổ thông dân tộc nội trú ở Trà Vinh
Hát ru nói chung là một loại hình ca hát tiêu biểu và
được hình thành từ lâu đời của các dân tộc. Chính vì vậy,
với những đặc trưng vốn có cùng với việc gắn hát ru với
việc giáo dục con trẻ đã tạo ra vị trí và giá trị nhất định
của hát ru đối với đời sống văn hóa các dân tộc. Ở nước
ta, mỗi miền đều có hát ru và lối hát của mỗi nơi, của mỗi
người cũng khác nhau. Tuy nhiên, dù ở đâu, chức năng
thực hành của hát ru đều giống nhau. Đó là dần đưa đứa
bé vào giấc ngủ êm đềm. Ngoài ra, thông qua lời ru,
người ru có thể giãi bày tâm sự, nỗi niềm của mình. Dù
không hề biết nhạc biết thơ là gì, mà chỉ qua truyền khẩu,
và hơn hết là với tình cảm trìu mến với cháu, với con,
“những người nghệ sĩ chân quê” đã vô tình lưu giữ, bảo
tồn được một loại hình âm nhạc độc đáo, thấm đậm tính
nhân văn.
Qua những lời ru của mình, những người bà, người
mẹ Khmer đã giúp cháu, con mình hình thành nhân cách,
thái độ ứng xử với con người, với tự nhiên; góp phần gieo
vào tâm thức trẻ thơ những hạt giống tốt lành về lòng
nhân ái, đạo lí làm người, tình yêu quê hương đất nước:
Mẹ cháu vất vả ruộng nương
Cả đời một nắng hai sương nhọc nhằn
Suốt ngày bùn lấm tay chân
Nhổ mạ cấy lúa mưa dầm gió giông... [3; tr 29]
Từ đó, hát ru sẽ dần dần dạy trẻ biết quý trọng từng
giọt mồ hôi, từng công sức và tấm lòng của người làm
cha mẹ để ngoan ngoãn, hiểu chuyện và nỗ lực hơn trong
quá trình trưởng thành. Trong các bài hát ru, người mẹ
đã khéo léo hướng cho con trẻ ý thức lao động, biết giúp
đỡ cha mẹ,...
Với truyền thông hiếu học và mong muốn thoát
nghèo bằng cái chữ, hát ru Khmer thay lời cha mẹ
khuyên con cái học hành chăm chỉ để sau này có thể tự
lo cho thân, có thể có đời sống tốt đẹp hơn cha mẹ chúng:
Mẹ ôm con mẹ dỗ
Chờ khi con lớn khôn
Mẹ cho con đến trường
Cái chữ cho con nương nhờ tấm thân! [3; tr 21]
Nỗi lòng đau đáu của bậc sinh thành là định hướng
tương lai phù hợp cho mỗi đứa trẻ và sẽ tạo thêm cho con
sức mạnh niềm tin vượt qua những sóng gió cuộc đời.
Bên cạnh ý nghĩa giáo dục, hát ru còn là một hình
thức để người phụ nữ Khmer bộc bạch tâm sự, kể cả
những tâm tư khó nói. Trong đêm khuya, khi ngoài trời
mưa tuôn xối xả,... người phụ nữ dường như được ngoại
cảnh tác động đã mạnh dạn giãi bày nỗi lòng:
À ơi...
Ngoài hiên tí tách mưa rơi
Từng giọt từng giọt mưa hoài chẳng ngưng
Tiếng chim cùng tiếng côn trùng
Hòa nhau thành tiếng nỉ non u buồn... [3; tr 19]
Những hành động, sự lo nghĩ của người phụ nữ, chủ
yếu là người mẹ cho con, cho chồng được gửi gắm trong
các bài hát ru Khmer cho chúng ta thấy được sự đảm
đang, giàu đức hi sinh của người phụ nữ Khmer. Lời ru
của người phụ nữ Khmer như một nét đẹp trong văn hóa
ứng xử và thể hiện sự hữu dụng của mình với rất nhiều
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 443 (Kì 1 - 12/2018), tr 37-41; 53
39
chức năng kép của một thể loại âm nhạc dân gian. Cách
thể hiện tình yêu, sự quan tâm lo lắng cho con, dạy con
sống đúng đắn là cách hành xử tốt đẹp mà người Khmer
muôn đời vẫn làm, vẫn mong muốn con cháu mình tiếp
nối.
Ngoài văn hóa ứng xử, giáo dục, hát ru Khmer còn
tái hiện hình ảnh vùng đất Nam Bộ, các sản vật quen
thuộc thường được đưa vào lời ru để lại dấu ấn đặc trưng,
vừa gần gũi vừa đặc biệt: Mẹ đi Sa Đéc mua quà/Mua
bánh mua trái, chuối già chuối cơm...[3; tr 13]. Dù có là
một địa danh cụ thể, hay chỉ là những hình ảnh chung về
miền quê yên bình như hình ảnh dòng sông, cánh đồng
thì nó vẫn mang chung nỗi niềm của người mẹ. Họ nhắc
nhở con mình về quê hương như một phần máu thịt của
mỗi người. Và còn nữa, hình ảnh cửa nhà, ngõ xóm là
một phần kí ức tuổi thơ dù chỉ nhỏ bé, đơn sơ thôi nhưng
chắc chắn sẽ không thể phai mờ trong nỗi nhớ, trong trái
tim của mỗi người con Khmer.
Trong hát ru, mỗi người đều có một cách hát riêng
nhưng nhìn chung đều mang tính trữ tình. Nó thể hiện rõ
tình cảm của người ru với người được ru, đặc biệt là tình
mẫu tử thiêng liêng và luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong
tâm hồn trẻ nhỏ. Qua những bài hát ru, hình ảnh những
người mẹ, người bà Khmer miệt mài, nhẫn nại để con
mình yên giấc mãi luôn là hình ảnh đẹp khắc vào lòng
những đứa con đến cuối cuộc đời:
Ngủ đi con, hỡi con ngoan
Mai mẹ dậy sớm đi làm nuôi con
Con thương, mẹ dỗ mẹ bồng
Để ba con ngủ hừng đông đi cày [3; tr 19]
Hình thức diễn xướng dân ca của người Khmer khá
đa dạng, nó gắn bó mật thiết với đời sống thường ngày
của bà con phum sóc như lao động sản xuất, nghi lễ
phong tục, sinh hoạt. Còn đối với hát ru Khmer, môi
trường diễn xướng, đối tượng được ru và người thực
hành hát ru là những yếu tố góp phần tạo nên giá trị nghệ
thuật, giá trị văn hóa của hát ru Khmer.
Trong diễn xướng hát ru, ngoài lời ru, những đôi cánh
tay, đôi chân, lồng ngực, chiếc võng là những “công cụ”
hỗ trợ để dỗ cho trẻ thơ đi vào giấc ngủ. Bên cạnh đó,
người ru cũng có thể dùng những động tác như vỗ về nhẹ
nhàng, nhịp điệu linh hoạt tùy theo trạng thái của đứa trẻ
mà giúp trẻ nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
Hát ru nằm trong hình thức diễn xướng đơn diễn.
Cũng giống như hát ru các dân tộc khác, người mẹ đóng
vai trò là người diễn xướng chủ yếu trong hát ru Khmer.
Ngoài ra, người bà cũng tham gia diễn xướng hát ru
nhưng đối với hát ru Khmer người bà đóng vai trò thay
thế khi mẹ bận việc. Vì vậy, dù khẳng định tình yêu của
mình dành cho cháu nhưng trong câu hát của bà hình ảnh
vất vả người mẹ luôn thường trực. Khi nghe người mẹ,
người bà Khmer cất lời ru, trong tâm trí mỗi người chúng
ta, hình dung dáng điệu về mẹ, về bà của mình chợt ùa
về, nồng ấm. Trên cánh võng trước hiên nhà, trên cái
giường đặt ở sát vách nhà,... mẹ, bà chúng ta đã từng ngồi
đấy, nhẫn nại, yêu thương.
Dân ca Khmer Nam Bộ hầu hết đều lấy không gian,
thời gian hiện tại làm thời gian nghệ thuật của mình.
Điều này cũng dễ hiểu trước hết bởi vì lời thơ được sáng
tác là để diễn xướng trong một môi trường không gian
và thời gian nhất định. Trong đó, thời gian hát ru Khmer
thường không giới hạn, có thể vào buổi trưa, buổi chiều
hay trong lúc đêm khuya. Với mục đích là ru để dỗ người
được ru đi vào giấc ngủ, nên hát ru có thể vang lên bất
cứ lúc nào khi người được ru buồn ngủ, có nhu cầu ngủ
hay do người ru có việc cần làm. Ngoài ra, thời gian
trong lời hát ru Khmer cũng mang tính phiếm chỉ. Nó là
thời gian của tâm trạng, thời gian tâm lí. Dường như chỉ
có thể lấy lí do sự nóng lòng của người mẹ để lí giải cho
sự phi lí của thời gian đó. Bỏ con thơ ở nhà đi chợ đường
xa, người mẹ rất lo lắng nên thấy thời gian qua nhanh
một cách bất thường. Điều này đã khẳng định cho tình
yêu thương, công chăm sóc lớn lao của những người mẹ
nói chung.
Sinh hoạt của hát ru diễn ra phổ biến hàng ngày, trong
không gian gia đình và cộng đồng làng xóm. Như đã nói
ở trên, không gian hát ru vừa cụ thể vừa mênh mang, vừa
là nơi ngôi nhà vừa là lòng mẹ thân yêu, nhưng cũng là
một không gian vô cùng rộng mở khoáng đạt do chính
những lời ru mang đến.
Đối với học sinh (HS) nói chung, HS ở các trường
phổ thông dân tộc nội trú ở Trà Vinh nói riêng, nếu được
dạy, được học hát ru thì HS sẽ được giáo dục tình yêu
quê hương, đất nước, con người. Đó là những bài học về
đạo đức, thẩm mĩ, giúp các em gần gũi hơn với nghệ
thuật âm nhạc và thơ ca truyền thống. Ngoài việc tạo nên
một tình cảm tốt đẹp đối với đất nước, văn hóa truyền
thống, hát ru còn trang bị cho lớp trẻ một cơ sở nghệ thuật
để sáng tạo, tiếp cận những bài ca dân tộc.
Ngoài ra, qua hát ru Khmer, HS sẽ hiểu thêm về mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và làn điệu, bắt nguồn từ giọng
nói, tâm - sinh lí phù hợp với lối sống và phong cách của
nhân dân ta. Hát ru cùng với các thể loại dân ca khác cũng
góp phần mở ra cho HS một kho tàng văn hóa tiềm ẩn
trong đó bởi những nét văn hóa, phong cách, đặc điểm
ngôn ngữ, hoàn cảnh sống, lịch sử địa lí, phong tục tập
quán gắn liền với đạo đức, tư tưởng, tình cảm với cuộc
sống khác nhau của từng địa phương, từng dân tộc.
Ở một góc độ khác, thông qua việc được học, được
nghe, được trình diễn các bài hát ru sẽ mang đến cho các
em sự yêu thích, gắn bó, say mê, tạo nên nhu cầu tự thân
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 443 (Kì 1 - 12/2018), tr 37-41; 53
40
và để rồi khi trưởng thành, không ít các em lại là những
người tiếp tục truyền dạy cho các thế hệ tiếp nối cảm
nhận và hiểu được cái hay, cái đẹp trong các làn điệu dân
ca của đất nước, quê hương mình.
Vì vậy, đưa hát ru Khmer vào nhà trường nói chung,
mà trước hết là các trường phổ thông dân tộc nội trú ở
Trà Vinh nói riêng, là một biện pháp thiết thực để truyền
bá và giáo dục lòng yêu mến, tự hào với những di sản
văn hóa dân tộc; hướng tới giáo dục toàn diện, hướng HS
tới cái Chân - Thiện - Mĩ, góp phần phát triển nhân cách,
qua đó trang bị cho các em hành trang vững bước vào
thời kì hội nhập, phát triển và đổi mới của đất nước.
2.3. Đề xuất các biện pháp đưa hát ru Khmer vào các
trường phổ thông dân tộc nội trú ở tỉnh Trà Vinh
2.3.1. Cơ sở và nguyên tắc của việc đề xuất đưa hát ru
Khmer vào các trường phổ thông dân tộc nội trú ở tỉnh
Trà Vinh
Trà Vinh là tỉnh nằm giữa sông Tiền và sông Hậu
thuộc miền Tây Nam Bộ. Đây là nơi tụ cư lớn của dân
tộc Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. Theo thống kê
năm 2013, người Khmer là 322.800 nghìn người, chiếm
31,62% dân số toàn tỉnh (Theo tài liệu số 781/BC-CTK
ngày 23/12/2013 của Cục Thống kê tỉnh Trà Vinh). Là
tộc người có mặt lâu đời và quá trình cộng cư với các dân
tộc khác trên vùng đất Nam Bộ, người Khmer Trà Vinh
vẫn bảo lưu đầy đủ bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
Một trong những nỗ lực chung trong việc giữ gìn
ngôn ngữ, bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, Nhà nước
thành lập các trường phổ thông dân tộc nội trú cho con
em dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư
lâu dài tại vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn
nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ và nguồn nhân
lực có chất lượng cho vùng này. Ở Trà Vinh, hiện có 08
trường phổ thông dân tộc nội trú, trong đó có 03 trường
trung học phổ thông. Trường phổ thông dân tộc nội trú là
loại hình trường chuyên biệt mang tính chất phổ thông,
dân tộc và nội trú. Các trường phổ thông dân tộc nội trú
ở Trà Vinh đang thực hiện chương trình giáo dục và các
hoạt động giáo dục của cấp học phổ thông tương ứng
được quy định tại Điều lệ trường trung học hiện hành,
ngoài ra còn thực hiện chương trình và các hoạt động
giáo dục đặc thù, trong đó có tổ chức giảng dạy môn
Tiếng Khmer. Trường phổ thông dân tộc nội trú được
phép tuyển sinh không quá 5% trong tổng số chỉ tiêu
được tuyển mới hằng năm là con em người dân tộc Kinh
có hộ khẩu thường trú và định cư từ 03 năm trở lên (tính
đến ngày tuyển sinh).
Hiện tại, tỉnh Trà Vinh có gần 58.000 HS dân tộc
thiểu số nhập học, đạt tỉ lệ 31,5% so tổng số HS toàn tỉnh;
cao hơn tỉ lệ dân số là người dân tộc của tỉnh hiện nay.
Ngoài các hoạt động học tập, các hoạt động giáo dục,
sinh hoạt của trường phổ thông nói chung, trường phổ
thông dân tộc nội trú còn tổ chức các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể thao nhằm giáo dục lòng yêu nước, đạo
đức, lối sống, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của
dân tộc, xóa bỏ các tập tục lạc hậu, góp phần phát triển
và hoàn thiện nhân cách HS. Trong những định hướng,
hoạt động để đạt được mục đích trên, thì thiết nghĩ cần
đa dạng hóa các hoạt động dạy học, sinh hoạt cho HS ở
các trường phổ thông dân tộc nội trú.
Như đã nói ở trên, lứa tuổi HS đang học ở các trường
phổ thông dân tộc nội trú, trung học cơ sở, trung học phổ
thông đang được tổ chức giảng dạy ở Trà Vinh rất phù
hợp với dạy học hát, biểu diễn hát ru. Ngoài ra, sách Âm
nhạc và Mĩ thuật 9, được thiết kế học trong một học kì,
trong đó phân môn Học hát gồm có 4 bài và ở tiết 15 là
bài hát do địa phương tự chọn. Đây là tiết dạy thuận lợi
cho các trường phổ thông dân tộc nội trú ở Trà Vinh đưa
hát ru vào tiết học chính khóa này.
Bên cạnh đó, trong chương trình Ngữ văn cấp trung
học cơ sở và trung học phổ thông, chúng ta có thể đưa
hát ru Khmer vào các tiết dạy sau:
- Chương trình Ngữ văn địa phương: tiết 71, 72, 139
trong chương trình Ngữ văn 6.
- Những câu hát về tình cảm gia đình: tiết 9 trong
chương trình Ngữ văn 7.
- Chương trình địa phương: tiết 74, 137 trong chương
trình Ngữ văn 7.
- Dạy chủ đề: từ tiết 78 đến 86 trong chương trình
Ngữ văn 10.
- Bài 18 “Vài nét về tình hình sưu tầm tục ngữ, ca
dao, dân ca địa phương” trong chương trình Ngữ văn địa
phương Trà Vinh lớp 7.
Ngoài ra, khi đề xuất đưa hát ru vào nhà trường trung
học, chúng tôi còn chú ý đến cơ sở đặc điểm về âm vực
giọng hát, đặc điểm tâm - sinh lí và nhận thức của HS.
Những bài hát ru Khmer được lựa chọn phải là những bài
hát nằm trong âm vực giọng của H