Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động

Chương I: Những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh Chương II: Thực trạng sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động

docx120 trang | Chia sẻ: lazy | Lượt xem: 2229 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Dù là một doamh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nào thì huy động vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là mục tiêu phấn đấu hàng đầu và lâu dài của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đóng vai trò quan trọng để mở rộng kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng doanh lợi của doanh nghiệp. Chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước là một quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế trước hết. Nhà nước cắt giảm nguồn vốn ngân sách cấp cho các doanh nghiệp, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh và tài chính cho các doanh nghiệp. Với cơ chế quản lý mới này đã đem lại cho một số doanh nghiệp những lợi thế trong việc huy động và sử dụng vốn, đồng thời cũng đem lại một số khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn, phát triển nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Và trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, Đảng ta đã chỉ rõ " Chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hôị, tăng nhanh sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân…". Vì vậy, nghiên cứu đồng bộ các biện pháp để phát triển nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh mang tính cấp thiết của mọi doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh, đời sống cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp nói riêng và phát triển nền kinh tế đất nước nói chung. Xuất phát từ tình hình thực tế của các doanh nghiệp ở Việt Nam và quá trình thực tập tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động dưới sự hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Phan Tố Uyên và các cán bộ Công ty, tôi đã lựa chọn đề tài: "Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động" làm nội dung nghiên cứu của mình. Với phương pháp nghiên cứu kết hợp lý luận thực tiễn, trên cơ sở phân tích các hoạt động tài chính của Công ty, đề tài nhằm nêu rõ bản chất và vai trò của vốn kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, nguyên tắc và nội dung công tác sử dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời đưa ra các giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động. Với hướng nghiên cứu như vậy, đề tài được xây dựng thành 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh Chương II: Thực trạng sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động Do trình độ lý luận cũng như khả năng thực tế còn hạn chế nên vấn đề nghiên cứu của tôi chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng với bạn đọc để đề tài nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn Ts. Phan Tố Uyên, cùng cán bộ các phòng ban liên quan của Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động đã hướng dẫn tận tình, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Chương I: Những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh. I. Khái niệm về vốn và phân loại vốn trong kinh doanh: 1. Khái niệm về vốn kinh doanh. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh với mục tiêu chung và quan trọng nhất đối với doanh nghiệp đó là lợi nhuận. Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phải luôn gắn liền với sự hoạt động của đồng vốn. Chủ thể kinh doanh không chỉ có vốn mà còn phải biết vận động không ngừng phát triển đồng vốn đó. Nếu gạt bỏ nguồn gốc bóc lột của CNTB trong công thức T-H-SX...H’-T’ của K.Marx thì có thể xem đây là một công thức kinh doanh: Chủ thể kinh doanh dùng vốn của mình dưới hình thức tiền tệ mua những tư liệu sản xuất để tiến hành quá trình sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá theo nhu cầu của thị trường rồi đem những thành phẩm hàng hoá này bán ra cho khách hàng trên thị trường để thu được một lượng tiền tề lớn hơn số ban đầu bỏ ra. Như vậy, theo quan điểm của K.Marx, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa này mang một tầm khái quát lớn, nhưng do bị hạn chế bởi những điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên Marx đã quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các nhà khoa học đại diện cho các trường phái khác nhau đã bổ sung các yếu tố mới cũng được coi là vốn. Nổi bật nhất là Paul.A.Samuelson_ Nhà kinh tế học theo trường phái “tân cổ điển” đã kế thừa các quan niệm của trường phái “cổ điển” về yếu tố sản xuất để phân chia các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thành 3 bộ phận là đất đai, lao động và vốn . Theo ông, vốn là hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới. Sau đó, David Begg đã bổ sung thêm cho định nghĩa vốn của Samuelson, theo ông vốn bao gồm có vốn hiện vật (các hàng hoá dự trữ, để sản xuất ra hàng hoá khác) và vốn tài chính (tiền, các giấy tờ có giá trị của doanh nghiệp). Nhìn chung, cả Samuelson và Begg đều có một quan điểm chung thống nhất cơ bản là các vốn là một đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, quan điểm này cho thấy vốn vẫn bị đồng nhất với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất, vốn kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Như vậy, muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh.Vốn kinh doanh là điều kiện để duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho người lao động. Từ đó, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh được khái quát theo sơ đồ sau: Vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất kinh doanh, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế nói chung và đối với doanh nghiệp nói riêng, thể hiện trên các mặt sau: Vốn kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động, phát triển của từng loại hình doanh nghiệp theo luật định. Vốn đóng vai trò quyết định mở rộng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đổi mới quy trình công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, góp phần tăng năng suất lao động và giảm giá thành chi phí của doanh nghiệp. Vốn là một nguồn lực quan trọng để phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh nghiệp, nó là một điều kiện thực hiện các chiến lược, sách lược kinh doanh, nó cũng là “dầu nhớt” bôi trên cho cỗ máy kinh tế vận động. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là yếu tố về giá trị. Như vậy, doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ nhu vầu về vốn kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động về tài chính, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo sức cạnh tranh. Còn ngược lại, nếu vốn không được bảo tồn và tăng lên trong mỗi chu kỳ kinh doanh thì vốn đã bị thiệt hại, đó là hiện tượng mất vốn. Sự thiệt hại lớn dẫn đến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, sẽ làm cho doanh nghiệp bị phá sản, tức là vốn kinh doanh đã bị sử dụng một cách lãng phí, không có hiệu quả. Tóm lại, vai trò của vốn kinh doanh đã được K.Marx khẳng định: “ Tư Đồng thời, K.Marx còn nhấn mạnh:” không một hệ thống nào có thể tồn tại nếu không vượt qua sự suy giảm về hiệu qủa tư bản”. bản đứng vị trí hàng đầu vì tư bản là tương lai”. Căn cứ vào khái niệm và vai trò của vốn ở trên, ta có thể thấy vốn có những đặc trưng cơ bản sau: Vốn là đại diện cho một lượng giá trị tài sản: Điều này có nghĩa vốn là sự biểu hiện bằng giá trị của các tài sản hữu hình và vô hình như: Nhà xưởng, máy móc, thiết bị, đất đai, bằng phát minh, sáng chế... Với tư cách này các tài sản tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nhưng nó không bị mất đi mà thu hồi được giá trị. Vốn luôn vận động để sinh lời: Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để trở thành vốn thì đồng tiền phải được đưa vào hoạt động kinh doanh để sinh lời. Trong quá trình vận động, vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị- là tiền. Đồng vốn đến điểm xuất phát mới với giá trị lớn hơn. Đó cũng là nguyên tắc đầu tư, sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn. Nói một cách khác, vốn kinh doanh trong quá trình tuần hoàn luôn có ở giai đoạn của quá trình tái sản xuất và thường xuyên chuyển từ dạng này sang dạng khác. Các giai đoạn này được lặp đi lặp lại theo một chu kỳ, mà sau mỗi chu kỳ vốn kinh doanh được đầu tư nhiều hơn. Chính yếu tố này đã tạo ra sự phát triển của các doanh nghiệp theo quy luật tái sản xuất mở rộng. Trong quá trình vận động vốn không tách rời chủ sở hữu: Mỗi đồng vốn đều có chủ sở hữu nhất đinh, nghĩa là không có những đồng vốn vô chủ, ở đâu có đồng vốn vô chủ thì ở đó sẽ có sự chi tiêu, lãng phí, kém hiêu quả. ở đây vần có sự phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn, đó là hai quyền năng khác nhau. Tuỳ theo hình thức đầu tư mà người sở hữu và người sử dụng vốn có thể đồng nhất hay tách rời. Song, dù trường hợp nào đi chăng nữa, người sở hữu vốn vẫn được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và phải được tôn trọng quyền sở hữu vốn của mình. Có thể nói đây là một nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong việc huy động, quản lý và sử dụng vốn. Nó cho phép huy động được vốn nhàn rỗi trong dân cư vào sản xuất kinh doanh, đồng thời quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả. Nhận thức được đặc trưng này sẽ giúp doanh nghiệp tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vốn phải được tập trung tích tụ đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng: Muốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, vốn phải được tập trung thành một lượng đủ lớn để mua sắm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cho sản xuất và chủ động trong các phương án sản xuất kinh doanh. Muốn làm được điều đó, các doanh nghiệp không chỉ khai thác các tiềm năng về vốn của mình, mà phải tìm cách thu hút vốn từ nhiều nguồn khác như phát cổ phiếu, góp vốn liên doanh liên kết... Vốn có giá trị về mặt thời gian: Một đồng hôm nay có giá trị hơn giá trị đồng tiền ngày hôm sau, do giá trị của đồng tiền chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: đầu tư, rủi ro, lạm phát, chính trị... Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, vấn đề này không được xem xét kỹ lưỡng vì nhà nước đã tạo ra sự ổn định của đồng tiền một cách giả tạo trong nền kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường cần phải xem xét về yếu tố thời gian của đồng vốn, bởi do ảnh hưởng sự biến động của giá cả thị trường, lạm phát... nên sức mua của đồng tiền ở các thời điểm là khác nhau. Vốn là loai hàng hoá đặc biệt: Những người sẵn có vốn có thể đưa vốn vào thị trường, còn những người cần vốn thì vay. Nghĩa là những người đi vay được quyền sử dụng vốn của ngườ cho vay. Người đi vay phải mất một khoản tiền trả cho người vay. Đây là một khoản chi phí sử dụng vốn mà người đi vay phải trả cho người cho vay, hay nói cách khác chính là giá của quyền sử dụng vốn. Khác với các loại hàng hoá thông thường khác, “ hàng hoá vốn “ khi bán đi sẽ không mất quyền sử hữu mà chỉ mất quyền sử dụng trong một thời gian nhất đinh. Việc mua bán này diễn ra trên thị trường tài chính, giá mua bán tuân theo quan hệ cung- cầu về vốn trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, vốn không chỉ được biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu hình mà nó còn biểu hiện giá trị của những tài sản vô hình như: Vị trí địa lý kinh doanh, nhãn hiệu thương mại, bản quyền, phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ... Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường thì khoa học kỹ thuật, công nghệ cũng phát triển mạnh mẽ. Điều này làm cho tài sản vô hình ngày càng đa dạng phong phú, đóng góp một phần không nhỏ trong việc tạo ra khả nằng sinh lời của doanh nghiệp. Từ những đặc trưng trên cho phép ta phân biệt giữa tiền và vốn : giữa một số quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp và vốn. Vốn kinh doanh được sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh tức là cho mục đích tích luỹ chứ không phải mục đích tiêu dùng như một số quỹ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh được ứng ra cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh và phải được th về khi chu kỳ kinh doanh kết thúc. Và lại được ứng cho chu kỳ tiếp theo. Vì vậy, kinh doanh không thể “ tiêu dùng” như một số quỹ khác trong doanh nghiệp. Mất vốn kinh doanh đồng nghĩa với nguy cơ phá sản doanh nghiệp. Ngoài ra, muốn có vốn thì phải có tiền song có tiền chưa hẳn là đã có vốn. Tiền được coi là vốn phải thoả mãn những điều kiện sau: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, tức là phải được đảm bảo bằng một lượng hàng hoá nhất định có thực. Tiền phải được tập trụng, tích tụ thành một khoản nhất định đủ sức đầu tư cho một dự án kinh doanh nào đó. Nếu tiền rải rác, không gom thành khoản thì không làm được gì. Khi đã đủ về lượng, tiền phải vận động nhằm mục đích sinh lời. Cách thức, hình thái vận động của tiền phụ thuộc vào phương thức kinh doanh. Ngoài những đặc trưng cơ bản trên, tiền còn có một số đặc trưng nữa mang tính riêng biệt như: + Là nguồn duy nhất sáng tạo ra giá trị mới. + Vừa là chủ thể quản lý vừa là đối tượng quản lý. + Tiền ẩn trong mọi người, phụ thuộc vào tư tưởng, tình cảm, môi trường... chỉ biểu hiện khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. 2. Phân loại vốn kinh doanh. Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ ... hay hoạt động bất cứ ngành nghề gì, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định. Số vốn kinh doanh đó được biểu hiện dưới dạng tài sản. Trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp quản lý vốn kinh doanh và sử dụng vốn kinh doanh có hiêu quả là nội dung quan trọng nhất, có tính chất quyết định đến mức độ tăng trưởng hay suy thoái của doanh nghiệp. Do vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ta vần phải nắm được vốn có những loại nào, đặc biệt vận động của nó ra sao... Có nhiều cách phân loại vốn kinh doanh, tuỳ theo mục tiêu nghiên cứu mà có thể có nhiều tiêu thức phân loại vốn kinh doanh khác nhau. 2.1. Phân loại vốn trên góc độ pháp luật, vốn bao gồm : - Vốn pháp định: là mức vốn tối thiểu phải có đẻ thành lập doanh nghiệp do pháp luật quy định, đảm bảo năng lực kinh doanh đối với từng ngành nghề và từng loại hình sở hữu của doanh nghiệp. Dưới mức vốn pháp định thì không đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp. - Vốn điều lệ: là vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của Công ty (doanh nghiệp). Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp, theo từng ngành nghề , vốn điều lệ không được thấp hơn vốn pháp định. 2.2. Phân loại vốn theo nguồn hình thành: Theo cách phân loại này, vốn được chia thành các loại sau: - Vốn đầu tư ban đầu: là số vốn phải có khi hình thành doanh nghiệp, tức là số vốn cần thiết để đăng ký kinh doanh, hoặc vốn góp của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân hoặc vốn của nhà nước giao. - Vốn liên doanh: là vốn đóng góp do các bên cùng cam kết kiên doanh với nhau để hoạt động thương mại hoặc dịch vụ... - Vốn bổ sung: là số vốn tăng thêm do bổ sung từ lợi nhuận, do nhà nước bổ sung bằng phân phối hoặc phân phối lại nguồn vốn do sự đóng góp của các thành viên hoặc, do bán trái phiếu... - Vốn đi vay: là các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp có nhiệm vụ phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế khác như ngân hàng, các tổ chức kinh tế, phải trả nhà nước, phải trả cho người bán... Ngoài ra, còn có khoản vốn chiếm dụng lẫn nhau của các đơn vị nguồn hàng, khách hàng và bạn hàng. 2.3. Phân loại vốn theo thời gian huy động vốn. Theo cách phân loại này, vốn được chia thành hai loại là vốn thường xuyên và vốn tạm thời. - Vốn thường xuyên: bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn của doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn được dùng để tài trợ cho các hoạt động đầu tư mang tính dài hạn của doanh nghiệp. - Vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 2.4. Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển: Trong quá trình sản xuất và tái sản xuất, vốn vận động một cách liên tục. Nó biểu hiện bằng những hình thái vật chất khác nhau, từ tiền mặt đến tư liệu lao động, hàng hoá dự trữ... Sự khác nhau về mặt vật chất này tạo ra đặc điểm chu chuyển vốn, theo đó người ta phân chia vốn thành hai loại là vốn cố định và vốn lưu động. - Vốn cố định: Là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, hay nói cách khác: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất biểu hiện dưới giá trị ban đầu để đầu tư vào các tài sản cố định nhằm phục vụ cho hoạt động được kinh doanh, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần vào giá trị của sản phẩm qua nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. Bộ phận vốn cố định trở về tay người sở hữu (chủ doanh nghiệp) dưới hình thái tiền tệ sau khi tiêu thụ sản phẩm hay dịch vụ hàng hoá của mình. - Vốn lưu động: là một bộ phận của vốn sản xuất được biểu hiện bằng số tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên liên tục, nó được chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm cà được thu hồi sau khi thu được tiền bán sản phẩm. Việc nghiên cứu các phương pháp phân loại vốn cho thay moõi phương pháp có ưu điểm và nhược điểm khác nhau, từ đó doanh nghiệp có các giải pháp huy động và sử dụng vốn phù hợp, có hiệu quả. 3. Các bộ phận cấu thành, đặc điểm vốn và nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được cấu thành bởi hai bộ phận là vốn cố định và vốn lưu động. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, công nghệ sản xuất áp trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật mà các doanh nghiệp xác định được tỷ lệ vốn hợp lý. Việc xác định cơ cấu vốn là yếu tố quan trọng, nó thể hiện trình độ quản lý và sử dụng vốn ở mỗi doanh nghiệp. 3.1. Vốn cố định của doanh nghiệp. 3.1.1. Khái niệm và đặc điểm vốn cố định. Vốn cố định: là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Hay nói cách khác: số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định vô hình và hữu hình nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Đây là số vốn đầu tư ứng trước, số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quẩ sẽ không mất đi mà doanh nghiệp sẽ thu hồi lại sau khi tiêu thụ các sản phẩm, hàng hoá hay dịch vụ của mình. Do đó, để biểu hiện rõ hơn về vốn cố định của doanh nghiệp, chúng ta xem xét hình thái biểu hiện của nó, tức là dựa trên cơ sở nghiên cứu về tài sản cố định. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần có tư liệu sản xuất. Căn cứ vào tính chất, tác dụng, tư liệu sản xuất được chia thành hai bộ phận là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động được sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Đặc điểm cơ bản của tư liệu lao động là chúng có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một hay nhiều chu kỳ sản xuất. Trong qua trình đó, giá trị của chúng bị giảm đi mặc dù giá trị sử dụng vẫn như ban đầu. Phần giá trị giảm đi được chuyển vào giá trị của sản phẩm. Do đó qua các chu kỳ, giá trị của tư liệu lao động được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm. Tài sản cố định là bộ phận tư liệu lao động chủ yếu quan trọng nhất của doanh nghiệp. Đó là những tư liệu lao động như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận chuyển... Khi tham gia vào sản xuất, chúng không bị thay đổi về hình thái ban đầu, giá trị của chúng được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm. Sau một hay nhiều chu kỳ sản xuất giá trị của tài sản cố định sẽ được chuyển hết vào giá trị của sản phẩm, khi đó tài sản cố định đã hết thời hạn
Tài liệu liên quan