Chất lượng cuộc sống dân cưphản ảnh trình độphát triển kinh tế- xã hội của một quốc gia ởcác
lĩnh vực kinh tếvăn hóa và phúc lợi xã hội. Đồng thời, CLCSDC và tăng trưởng kinh tế- xã hội có
mối quan hệkhắng khít, chặt chẽvới nhau. CLCSDC vừa là động lực thúc đẩy tăng trưởng vừa là
thước đo trình độvăn minh và sựphát triển nhiều mặt của một quốc gia. Chính vì vậy, nhiều quốc gia
trên thếgiới không ngừng thực hiện các chính sách phát triển toàn diện vềkinh tế- xã hội đểnâng cao
CLCSDC, nhằm khẳng định vịtrí của mình trên trường quốc tế.
Ngay từnhững ngày đầu xây dựng Đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứVII của Đảng
(năm 1991) đã khẳng định: “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế,
đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tốcon người và vì con người. Kết hợp hài hòa giữa sựphát
triển kinh tếvà sựphát triển xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân.”. Vì
vậy, CLCSDC trong những năm gần đây đã tăng lên đáng kể, thểhiện qua các chỉtiêu vềchất lượng
cuộc sống dân cư.
Chẳng hạn, chỉsốHDI tăng liên tục qua các năm, từ0,62% (năm 1990) lên 0,733% (năm 2007),
xếp thứ105/177 quốc gia; GDP BQĐN từthứhạng 133 (năm 1999) vượt lên hạng 118 (năm 2005);
tuổi thọtrung bình tăng nhanh, từ67,4 tuổi năm 2001 lên 72,8 tuổi năm 2009. Tuổi thọtăng phản ánh
mức sống dân cưvà công tác chăm sóc sức khoẻcho nhân dân được triển khai tốt. Ngoài ra, công tác
xoá đói giảm nghèo thực hiện tốt được thếgiới đánh giá cao; các lĩnh vực giáo dục, nhà ở, điện, nước,
văn hóa – thểthao phát triển mạnh cảvềsốlượng và chất lượng.
Nhìn chung, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã được nâng lên rất nhiều trong thời
gian qua, nhưng vẫn còn ởmức thấp. Chênh lệch mức sống còn cao giữa thành thị- nông thôn, giữa
các vùng trong cảnước, đặc biệt là các địa phương vùng sâu, vùng xa, miền núi. Mặt khác, nếu so sánh
với một sốnước trong khu vực và trên thếgiới, CLCSDC ởnước ta còn khá khiêm tốn.
Vĩnh Long là tỉnh nằm ởtrung tâm ĐBSCL, vùng trọng điểm lương thực – thực phẩm lớn nhất
nước ta. Nằm giữa hai con sông lớn nhất vùng, sông Tiền và sông Hậu là cửa ngõ ra biển, lại có quốc
lộ1A chạy qua tỉnh, nối hai thành phốHồChí Minh và Cần Thơ. Những lợi thếtrên tạo điều kiện cho
Vĩnh Long mởrộng giao lưu kinh tế, văn hóa – xã hội, đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa, thực
hiện công cuộc CNH – HĐH, từ đó hội nhập với nền kinh tếcảnước và đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
Thếnhưng, từsau khi tiến hành cải cách, chuyển sang nền kinh tếthịtrường, Vĩnh Long vẫn chỉ
là tỉnh nông nghiệp. Ngành nông nghiệp chiếm tỷtrọng cao trong tổng GDP của tỉnh, với khoảng 70%
dân sốsống dựa vào sản xuất nông nghiệp, trên 80% dân cưnông thôn có thu nhập thấp. Hơn nữa,
phần lớn đời sống kinh tếnơi đây vẫn còn nhiều khó khăn, mức sống dân cưcòn thấp; các lĩnh vực văn
hóa, xã hội và dịch vụphát triển chậm. Trong thời kỳphát triển kinh tếthịtrường theo định hướng Xã
hội chủnghĩa và hội nhập quốc tế, chúng ta không thểhài lòng với cuộc sống nhưhiện tại, trong khi
tiềm năng địa phương có nhiều thuận lợi cho sựphát triển. Vĩnh Long cần phải có chiến lược phát
triển, những bước đi phù hợp, những giải pháp hợp lý mới hy vọng nâng cao CLCSDC, đó cũng chính
là phát triển toàn diện nền kinh tế- xã hội địa phương.
Được sinh ra và trưởng thành tại Vĩnh Long, trăn trởvới những gì đang diễn ra nơi đây, và mong
muốn được đóng góp một phần nhỏvào công cuộc xây dựng, phát triển quê nhà, tôi đã chọn nghiên
cứu đềtài “Một sốgiải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống dân cưtỉnh Vĩnh Long trong thời kỳ
hội nhập”.
102 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2546 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống dân cưtỉnh vĩnh long trong thời kì hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------o0o-------
Nguyễn Thanh Hiếu
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG DÂN CƯ TỈNH
VĨNH LONG
TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP
Chuyên ngành: Địa lý học
Mã số: 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS. PHẠM XUÂN HẬU
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Phạm Xuân Hậu, người đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ và động viên tôi rất nhiều trong quá trình làm luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy Cô đã nhiệt tình giảng dạy, đóng góp nhiều ý kiến xác
đáng, giúp chúng tôi có những cảm nhận và tiếp thu một cách tốt nhất về chuyên ngành theo học.
Tôi cũng xin gởi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban lãnh đạo và chuyên viên phòng KHCN - SDH, ban chủ nhiệm và giảng viên khoa Địa
lý của trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh đã tạo thuận lợi cho chúng tôi trong suốt khoá học vừa qua.
Các cơ quan trong tỉnh Vĩnh Long đã nhiệt tình hỗ trợ và cung cấp các tài liệu liên quan
đến đề tài tôi thực hiện.
Ban giám hiệu và các đồng nghiệp trong tổ Địa lý trường THPT Chêguêvara (Mỏ Cày –
Bến Tre) đã tạo điều kiện và hỗ trợ để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Lời cảm ơn chân thành đến các bạn cùng khóa đã luôn chia sẽ cùng tôi những buồn vui và khó
khăn trong quá trình học tập.
Cuối cùng, tận đáy lòng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến những người thân yêu
trong gia đình tôi, những bạn bè tâm giao của tôi. Họ, những người đã luôn ở bên tôi mọi lúc và chính
là động lực để tôi hoàn tất tốt luận văn.
Nguyễn Thanh Hiếu
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQĐN : bình quân đầu người
CCKT : cơ cấu kinh tế
CEPAL : ủy ban kinh tế
CLCS : chất lượng cuộc sống
CLCSDC : chất lượng cuộc sống dân cư
CNH – HĐH : công nghiệp hóa – hiện đại hoá
ĐBSCL : đồng bằng sông Cửu Long
GDP : tổng sản phẩm quốc nội
GNP : tổng sản phẩm quốc gia
FAO : tổ chức lương thực Thế giới
HDI : chỉ số phát triển con người
IMF : quỹ tiền tệ Quốc tế
LLLĐ : lực lượng lao động
THCS : trung học cơ sở
THPT : trung học phổ thông
UNDP : liên Hợp Quốc
UNESCO : tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá
UNEP : chương trình Môi trường
WB : ngân hàng Thế giới
WHO : tổ chức Y tế Thế giới
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chất lượng cuộc sống dân cư phản ảnh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia ở các
lĩnh vực kinh tế văn hóa và phúc lợi xã hội. Đồng thời, CLCSDC và tăng trưởng kinh tế - xã hội có
mối quan hệ khắng khít, chặt chẽ với nhau. CLCSDC vừa là động lực thúc đẩy tăng trưởng vừa là
thước đo trình độ văn minh và sự phát triển nhiều mặt của một quốc gia. Chính vì vậy, nhiều quốc gia
trên thế giới không ngừng thực hiện các chính sách phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội để nâng cao
CLCSDC, nhằm khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế.
Ngay từ những ngày đầu xây dựng Đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
(năm 1991) đã khẳng định: “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế,
đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hòa giữa sự phát
triển kinh tế và sự phát triển xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân...”. Vì
vậy, CLCSDC trong những năm gần đây đã tăng lên đáng kể, thể hiện qua các chỉ tiêu về chất lượng
cuộc sống dân cư.
Chẳng hạn, chỉ số HDI tăng liên tục qua các năm, từ 0,62% (năm 1990) lên 0,733% (năm 2007),
xếp thứ 105/177 quốc gia; GDP BQĐN từ thứ hạng 133 (năm 1999) vượt lên hạng 118 (năm 2005);
tuổi thọ trung bình tăng nhanh, từ 67,4 tuổi năm 2001 lên 72,8 tuổi năm 2009. Tuổi thọ tăng phản ánh
mức sống dân cư và công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được triển khai tốt. Ngoài ra, công tác
xoá đói giảm nghèo thực hiện tốt được thế giới đánh giá cao; các lĩnh vực giáo dục, nhà ở, điện, nước,
văn hóa – thể thao phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng.
Nhìn chung, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã được nâng lên rất nhiều trong thời
gian qua, nhưng vẫn còn ở mức thấp. Chênh lệch mức sống còn cao giữa thành thị - nông thôn, giữa
các vùng trong cả nước, đặc biệt là các địa phương vùng sâu, vùng xa, miền núi. Mặt khác, nếu so sánh
với một số nước trong khu vực và trên thế giới, CLCSDC ở nước ta còn khá khiêm tốn.
Vĩnh Long là tỉnh nằm ở trung tâm ĐBSCL, vùng trọng điểm lương thực – thực phẩm lớn nhất
nước ta. Nằm giữa hai con sông lớn nhất vùng, sông Tiền và sông Hậu là cửa ngõ ra biển, lại có quốc
lộ 1A chạy qua tỉnh, nối hai thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Những lợi thế trên tạo điều kiện cho
Vĩnh Long mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa – xã hội, đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa, thực
hiện công cuộc CNH – HĐH, từ đó hội nhập với nền kinh tế cả nước và đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
Thế nhưng, từ sau khi tiến hành cải cách, chuyển sang nền kinh tế thị trường, Vĩnh Long vẫn chỉ
là tỉnh nông nghiệp. Ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong tổng GDP của tỉnh, với khoảng 70%
dân số sống dựa vào sản xuất nông nghiệp, trên 80% dân cư nông thôn có thu nhập thấp. Hơn nữa,
phần lớn đời sống kinh tế nơi đây vẫn còn nhiều khó khăn, mức sống dân cư còn thấp; các lĩnh vực văn
hóa, xã hội và dịch vụ phát triển chậm. Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, chúng ta không thể hài lòng với cuộc sống như hiện tại, trong khi
tiềm năng địa phương có nhiều thuận lợi cho sự phát triển. Vĩnh Long cần phải có chiến lược phát
triển, những bước đi phù hợp, những giải pháp hợp lý mới hy vọng nâng cao CLCSDC, đó cũng chính
là phát triển toàn diện nền kinh tế - xã hội địa phương.
Được sinh ra và trưởng thành tại Vĩnh Long, trăn trở với những gì đang diễn ra nơi đây, và mong
muốn được đóng góp một phần nhỏ vào công cuộc xây dựng, phát triển quê nhà, tôi đã chọn nghiên
cứu đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư tỉnh Vĩnh Long trong thời kỳ
hội nhập”.
2. Mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chất lượng cuộc sống dân cư và vận dụng vào việc phân tích chất
lượng cuộc sống dân cư ở một địa phương.
Từ nghiên cứu thực trạng chất lượng cuộc sống dân cư đề xuất phương hướng và giải pháp phát
triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao CLCSDC tỉnh Vĩnh Long trong thời kỳ hội nhập.
2.2. Nhiệm vụ
Hệ thống hóa và phân tích các chỉ tiêu cơ bản đánh giá CLCSDC.
Phân tích thực trạng CLCSDC tỉnh Vĩnh Long trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế dựa trên các
điều kiện đặc thù của tỉnh.
Đưa ra các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao CLCSDC theo quan điểm phát
triển bền vững và phát triển con người.
3. Giới hạn nghiên cứu đề tài
Về thời gian: luận văn sử dụng nguồn tư liệu tổng hợp từ năm từ năm 2000 đến năm 2008.
Về không gian: tỉnh Vĩnh Long có sự phân hóa theo cấp huyện thị.
Về nội dung: một số nội dung cơ bản như chỉ số phát triển con người, GDP/người, nghèo đói, y
tế, giáo dục, các điều kiện về nhà ở – điện – nước, văn hóa, thể dục – thể thao và môi trường.
4. Lịch sử nghiên cứu đề tài
CLCS vẫn luôn là vấn đề được nhiều người quan tâm, có rất nhiều bài viết, báo cáo trong và ngoài
nước trực tiếp hoặc gián tiếp nói đến CLCS, chẳng hạn:
– “Một số vấn đề cơ bản về giáo dục dân số” - Dự án VIE/94/P01- Hoàng Đức Nhuận (chủ biên),
đề cập đến chất lượng cuộc sống thông qua nội dung “Mối quan hệ giữa phát triển dân số và chất lượng
cuộc sống”.
– Các “Báo cáo phát triển con người” của Liên Hợp Quốc hằng năm, đề cập gián tiếp về chất
lượng cuộc sống qua chỉ số phát triển con người (HDI).
– Các “Cuộc điều tra mức sống và điều tra dân số” do Tổng cục Thống kê Trung ương và địa
phương tiến hành qua các năm, nhưng chỉ phản ánh thuần túy về tăng trưởng kinh tế, thu nhập BQĐN,
giáo dục, sức khỏe, nhà ở,...
– Một số đề tài luận văn thạc sĩ như: “Chất lượng cuộc sống dân cư tỉnh Bình Thuận - Hiện trạng
và giải pháp”, “Chất lượng cuộc sống dân cư tỉnh Nghệ An”,... đã đề cập trực tiếp đến chất lượng cuộc
sống dân cư của địa phương.
Tuy nhiên, việc đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư ở tỉnh Vĩnh Long
trong thời kỳ hội nhập như hiện nay vẫn chưa có đề tài, bài viết tổng thể nào đề cập.
5. Quan điểm nghiên cứu
5.1. Quan điểm tổng hợp hệ thống
Vấn đề CLCSDC bao hàm nhiều thành phần kinh tế - xã hội khác nhau và các vấn đề này có mối
quan hệ mật thiết với nhau theo một hệ thống. Khi nghiên cứu, cần có sự nhận định tổng hợp giữa các
hợp phần trong một hệ thống và giữa các hệ thống với nhau để có sự đánh giá vấn đề một cách chi tiết
và khái quát.
5.2. Quan điểm lãnh thổ
Khi nghiên cứu CLCSDC cần xem xét, phân tích các mối quan hệ trên một lãnh thổ thống nhất, từ
đó có nhận xét chính xác về đối tượng nghiên cứu. Chẳng hạn, có sự phân biệt giữa thành phố, thị trấn
hay xã, ấp,... khi xem xét các điều kiện về nhà ở, điện nước, vệ sinh môi trường…
5.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Khi nghiên cứu CLCSDC tỉnh Vĩnh Long, cần quán triệt quan điểm lịch sử viễn cảnh để nắm
được quá khứ của đối tượng nghiên cứu thì mới có thể giải thích được sự phát triển hiện tại, cũng như
dự báo một cách chính xác hơn cho tương lai.
5.4. Quan điểm sinh thái
Khi nghiên cứu cần tính đến yếu tố môi trường, làm thế nào để có môi trường sống tốt hơn? Đó
cũng chính là một giải pháp nâng cao chất lượng sống.
5.5. Quan điểm phát triển bền vững
Mọi sinh vật tồn tại và phát triển phụ thuộc vào điều kiện sinh thái nhất định. Cho nên ngoài việc
đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội,… cần gắn với bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển bền
vững về mặt kinh tế - xã hội và môi trường.
6. Các phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thu thập và phân tích tổng hợp tài liệu, tư liệu
Để thực hiện luận văn này, tác giả đã thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau như: báo tạp chí,
các tài liệu viết, tài liệu thống kê, các trang web,... sau đó, tiến hành phân tích nhằm phục vụ cho mục
đích nghiên cứu.
6.2. Phương pháp phân tích – so sánh
Phân tích khái quát thực trạng CLCSDC cả nước và thực trạng CLCSDC tỉnh. Sau đó, tiến hành
so sánh và phân tích để đưa ra các kết luận, nhận định vấn đề nghiên cứu.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Từ những số liệu tìm được, tác giả tiến hành tính toán để có thể đưa ra những nhận định, dự báo
hợp lý cho vấn đề nghiên cứu.
6.4. Phương pháp bản đồ
Sử dụng các bản đồ, biểu đồ, đồ thị, bảng số liệu,... để minh họa, dẫn chứng, hay chứng minh cho
vấn đề, nhằm giúp người đọc theo dõi thuận lợi hơn.
6.5. Phương pháp cân đối
Khi phát triển kinh tế, xã hội và các dịch vụ xã hội,… cần đảm bảo sự phát triển trong mối quan
hệ cân đối, hài hòa.
7. Cấu trúc luận văn
Nội dung luận văn gồm 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó, phần nội dung gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận nghiên cứu chất lượng cuộc sống dân cư.
Chương 2: Thực trạng chất chất lượng cuộc sống dân cư tỉnh Vĩnh Long.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư tỉnh Vĩnh Long trong thời kỳ
hội nhập.
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG DÂN CƯ
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Chất lượng (Quality)
Là những thuộc tính bản chất vốn có của sự vật, làm cho sự vật này phân biệt với sự vật khác.
Chất lượng là thuộc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài qua các thuộc tính
của nó. Chất lượng của sự vật cũng gắn liền với số lượng, mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của
chất lượng và số lượng [11, tr.52].
1.1.2. Dân cư
Là tập hợp những con người cùng cư trú trên một lãnh thổ nhất định gọi là dân cư của vùng đó.
Lãnh thổ ở đây có thể là xã, huyện, tỉnh, cả nước, một Châu lục hay toàn bộ Trái Đất,… Chẳng hạn
như dân cư Hà Nội, dân cư miền núi, dân cư Việt Nam,… Như vậy, khi nói đến dân cư là nói đến quy
mô, cơ cấu và các vấn đề kinh tế, văn hóa, sức khỏe, ngôn ngữ,…
1.1.3. Chất lượng cuộc sống dân cư
CLCSDC là một phạm trù rất rộng bao gồm nhiều yếu tố đa dạng và phức tạp, biến động theo thời
gian và lãnh thổ. Vì vậy, khó có thể định nghĩa một cách hoàn chỉnh, có nhiều quan niệm khác nhau về
khái niệm CLCSDC.
Quan niệm của giáo sư Vũ Khiêu:
“CLCSDC là khả năng đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người trong hoạt động
sống nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người về vật chất – tinh thần”.
Quyển “Một số vấn đề cơ bản về giáo dục dân số, Dự án VIE/94/P01-Hà Nội, 1995 do giáo
sư Hoàng Đức Nhuận chủ biên, thể hiện:
“CLCSDC là điều kiện sống được cung cấp đầy đủ nhà ở, giáo dục, dịch vụ y tế, lương thực,
vui chơi, giải trí cho nhu cầu của con người. Điều kiện này làm con người dễ dàng đạt được sự hạnh
phúc, an toàn gia đình, khỏe mạnh về thể chất và tinh thần” [12, tr.114].
Tuy hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất vì CLCSDC thay đổi tùy theo quan niệm văn
hóa xã hội và truyền thống của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng và từng cá nhân trong từng giai đoạn phát
triển của xã hội. Nhưng theo tôi, khái niệm CLCSDC trong quyển “Một số vấn đề cơ bản về giáo dục
dân số…” có thể xem là khái niệm cơ bản và khái quát nhất.
1.2. Các chỉ tiêu xác định chất lượng cuộc sống
Việc đưa ra các chỉ số xác định hay chuẩn mực sống của con người cũng rất khác nhau ở mỗi
quốc gia.
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đưa ra một số chỉ tiêu: Chỉ số phát triển
con người (HDI) và một số chỉ số khác cũng được xem xét để đánh giá CLCSDC như: chỉ số nghèo
khổ, lương thực bình quân đầu người, các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, chất lượng môi
trường sống.
Trong quyển “Một số vấn đề cơ bản về giáo dục dân số, Dự án VIE/94/P01-Hà Nội, 1995
do giáo sư Hoàng Đức Nhuận chủ biên đưa ra các chỉ tiêu: Phát triển kinh tế, lương thực - dinh
dưỡng, giáo dục, sức khỏe và phương tiện y tế, nhà ở, giao thông, an toàn xã hội, giải trí và các dịch
vụ xã hội khác...[12, tr.115].
Ngoài ra, còn rất nhiều quan niệm khác nhưng chung quy lại đều xoay quanh các chỉ số về vật
chất và tinh thần. Căn cứ vào tình hình phát triển hiện nay, chúng ta có thể nhận ra rằng con người thực
sự trở thành mục tiêu của sự phát triển, với phương châm hành động “phát triển vì con người”. Việc
nâng cao CLCS con người về thể chất và trí tuệ, tinh thần và vật chất là đích phấn đấu của mỗi quốc
gia. Vì vậy, các thước đo CLCS con người chính là thu nhập BQĐN (GDP/người), giải quyết vấn đề
xóa đói giảm nghèo, lương thực BQĐN, lao động - việc làm, giáo dục, sức khỏe và phương tiện y tế,
môi trường sống, và các dịch vụ xã hội khác (nhà ở – điện – nước; văn hóa, thể dục thể thao, vui chơi
giải trí)... được xác định bằng chỉ số phát triển con người.
1.2.1. Chỉ số phát triển con người (HDI)
Chỉ số phát triển con người là một chỉ số mô tả bức tranh khá hoàn chỉnh về sự phát triển của một
nước. Và đồng thời, đây cũng là chỉ số tổng hợp làm tiêu chí xác định CLCSDC.
Từ năm 1990, Liên Hợp Quốc (UNDP) dùng chỉ số HDI để đánh giá và so sánh trình độ phát triển
của các nước trên mặt bằng thống nhất, chỉ số này bao gồm ba yếu tố:
Một cuộc sống lâu dài khỏe mạnh, được đo bằng tuổi thọ trung bình từ lúc sinh.
Kiến thức, được đo bằng tỉ lệ người lớn biết chữ (với quyền số 2/3) và tỷ lệ nhập học các cấp giáo
dục tiểu học, trung học và đại học (với quyền số 1/3).
Mức sống đo bằng GDP thực tế đầu người theo sức mua tương đương tính bằng đôla Mỹ
(PPP/USD).
Các chỉ số trên đều nhận giá trị từ 0 đến 1, các chỉ số càng gần tới 1 có nghĩa là trình độ phát triển
và xếp hạng càng cao (với 1 là thứ hạng cao nhất), và ngược lại các chỉ số càng gần 0 có nghĩa là trình
độ phát triển và xếp hạng càng thấp. Từ đó, người ta căn cứ vào chỉ số HDI để xếp hạng các nước
trong khoảng từ 0 – 1 như sau:
– HDI < 0,500: thấp
– HDI từ 0,501 – 0,799: trung bình
– HDI > 0,800: cao
Xếp hạng theo chỉ số HDI ở một số nước có sự khác biệt đáng kể so với xếp hạng theo GDP
(GNP) thực tế đầu người. Hiệu số giữa thứ bậc xếp hạng về GDP và thứ bậc xếp hạng về HDI của một
nước cho thấy mức độ thành công (hay thất bại) của nước này so với nước khác trong việc chuyển các
lợi ích của tăng trưởng kinh tế vào CLCSDC của mình. Hiệu số âm có nghĩa là một nước đang làm tốt
hơn về khía cạnh phát triển con người so với thu nhập BQĐN và hiệu số dương có ý nghĩa ngược lại
(xem bảng 1.1).
Bảng 1.1. Tương quan giữa phát triển kinh tế và phát triển con người của các nước ASEAN,
2007
HDI GDP Các nước
ASEAN Xếp hạng Chỉ số Xếp hạng Chỉ số
Hiệu số vị trí xếp
hạng giữa GDP và
HDI
Singapo 25 0,922 19 0,950 -6
Brunây 30 0, 894 22 0,941 -8
Malayxia 63 0,811 57 0,783 -6
Thái Lan 78 0,781 65 0,745 -13
Philippin 90 0,771 101 0,657 11
Việt Nam 105 0,733 123 0,572 18
Inđônêxia 107 0,728 113 0,609 6
Lào 130 0,601 141 0,503 11
Campuchia 131 0,598 125 0,552 -6
Mianma 132 0,583 167 0,389 35
Đôngtimo 151 0,514 167 0,390 16
Nguồn: Báo cáo phát triển con người của UNDP 2007/2008.
Hiệu số vị trí xếp hạng giữa GDP và HDI cho thấy Singapo, Brunây, Malayxia, Thái Lan đã định
hướng các tiềm năng kinh tế của mình sát với những nhu cầu của tiến bộ con người. Tuy nhiên cần
nhấn mạnh một lần nữa rằng, HDI chỉ phản ánh được một vài trong số các lựa chọn của con người, bỏ
qua nhiều vấn đề quan trọng khác như quyền tự do về kinh tế - xã hội - chính trị, quyền được bảo vệ
trước tội phạm, trước sự xâm phạm và mất ổn định.
Ở nước ta, theo công bố hàng năm của Liên Hợp Quốc, chỉ số HDI tăng liên tục qua các năm từ
0,539 năm 1992 lên 0,709 năm 2006, và đạt 0,733 năm 2007; dẫn đến xếp hạng HDI tăng theo từ thứ
122/174 quốc gia năm 1992 lên 105/177 quốc gia năm 2007 (xem biểu đồ 1.1). Trong khu vực Đông
Nam Á, thứ bậc về HDI của Việt Nam cũng tăng từ thứ 7 lên thứ 6; ở khu vực Châu Á tăng từ thứ 32
lên thứ 28. Điều đó chứng tỏ việc tăng trưởng kinh tế đã hướng vào sự phát triển xã hội và con người.
Chỉ số HDI của nước ta đạt được kết quả trên là nhờ sự đóng góp của cả ba chỉ số, trong đó chỉ số
tuổi thọ và chỉ số giáo dục là đáng kể nhất (0,81), cao hơn chỉ số GDP/người (0,572) vào năm 2007.
Mặc dù, chỉ số HDI của nước ta không ngừng tăng lên nhưng vẫn còn nằm trong nhóm nước có thứ
hạng chỉ số HDI trung bình.
Ngoài ra, theo báo cáo phát triển con người Việt Nam xây dựng năm 2006 cho tám vùng kinh tế,
thì chỉ có vùng Đông Nam Bộ đạt mức độ tương thích về phát triển kinh tế - phát triển con người, các
vùng khác chưa đạt được đều này. Nếu tính cho 64 tỉnh thành phố của cả nước thì chỉ có Bà Rịa –
Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh đạt mức độ tương thích trung bình giữa phát triển con người – phát triển
kinh tế. Hà Nội, Bình Dương và Đồng Nai mới ở mức xấp xỉ trung bình giữa phát triển con người –
phát triển kinh tế.
Chỉ số HDI của nước ta được đánh giá là tiến bộ nhanh nhất trong các nước Đông Nam Á, tuy
nhiên để theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới, nước ta cần phải giải quyết thêm nhiều vấn
đề liên quan.
1.2.2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Tổng sản phẩm quốc nội phản ánh sự tăng trưởng kinh tế và mức sống dân cư qua thu nhập
BQĐN (GDP/người).
Định nghĩa:
“Là tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cuối cùng mà một nền kinh tế tạo ra bởi cả
dân sự và phi dân sự, không phân biệt do người trong nước hay người nước ngoài tạo ra. GDP không
bao gồm phần khấu trừ đối với khoản khấu hao vốn vật chất hay sự suy giảm và xuống cấp của tài
nguyên thiên nhiên” [40, tr.152].
Cùng với GDP, người ta còn sử dụng chỉ tiêu GNP để đánh giá trình độ phát triển kinh tế và mức
sống giữa các nước với nhau. GNP được định nghĩa như sau: “tổng sản phẩm quốc gia (GNP) gồm
Biểu đồ 1.1: Chỉ số phát triển con người Việt Nam giai đoạn
2001 - 2007
0.682
0.688 0.688 0.691
0.704
0.709
0.733
0.65
0.66
0.67
0.68
0.69
0.7
0.71
0.72
0.73
0.74
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007