Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
Chương II : Thực trạng xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng .
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng .
104 trang |
Chia sẻ: lazy | Lượt xem: 1696 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỘT LỜI NÓI ĐẦU
T
T
ừ sau đại hội Đảng VI đến nayđến nay, nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển mạnh sang công nghiệp hoá, xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới.Việc cam kết thực hiện CEPT/AFTA với tư cách là một thành viên của ASEAN, trở thành thành viên chính thức của APEC tháng 11/1998 cũng như việc sẽ là thành viên của WTO trong tương lai và việc ký kết đàm phán hiệp định thương mại Việt- Mỹ sắp tới. Mối quan hệ thương mại này, bao giờ cũng mang tính cạnh tranh gay gắt, vừa là cơ hội vừa là thách thức. Đó là khả năng sản xuất hàng hoá, dịch vụ đáp ứng đủ nhu cầu trước sức ép cạnh tranh của các nước có nền công nghiệp tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
Xét trên góc độ Ngành Dệt May Việt Nam, với sự nỗ lực cố gắng của các doanh nghiệp, ước tính năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt-May có thể đạt tới mức kỷ lục mới là 1,7 tỷ USD, đạt ngôi á quân về kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên sau nhiều năm phấn đấu mới chỉ đạt 30%, mà theo đánh giá của Bộ Công Nghiệp, nếu có thị trường xuất khẩu có thể đạt tới 2,5 - 2,7 tỷ $. Đành rằng về phương diện công nghệ và thiết bị có tới 2/3 doanh nghiệp Dệt -May Việt Nam có thể sánh ngang với các nước trong khu vực. Do đó Ngành Dệt May nói chung cũng như Công Ty Dệt Hải Phòng nói riêng thực hiện thành công chiến lược thị trường, có đủ sức cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài cùng loại.
Lộ trình Việt Nam tham gia vào AFTA, APEC và WTO, là một cơ hội cũng như thách thức lớn mang tính sống còn của mỗi doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu trong đó có Công Ty Dệt Hải Phòng . nước. Một trong những lĩnh vực không thể thiếu giúp cho nền kinh tế có được một tốc độ phát triển nhanh và ổn định đó là phát triển ngành sản xuất công nghiệp. Việt Nam với nền tảng phát triển là một nền nông nghiệp lạc hậu, cơ sở hạ rong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đã buộc chúng ta phải đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất tầng thấp kém, cộng thêm áp lực dân số thì những ngành có hàn lượng khoa học kỹ thuật thấp như ngành công nghiệp nhẹ trong công nghiệp chế biến mà đặc biệt là công nghiệp dệt may.
Thực tế trong những năm vừa qua, đã khảng định vị thế của ngành Dệt may Việt Nam, là một trong những ngành xuất khẩu mang lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho quá trình công nghiệp hoá đất nước. Ngành dệt may cũng là một trong những ngành đạt chỉ tiêu tổng kim ngạch trên một tỷ USD của Việt Nam là ngành đứng thứ hai về tổng kim ngạch xuất khẩu trong những năm qua. Tuy nhiêm, cùng với sự phát triển đi lên của ngành dệt may thì những doanh nghiệp trong nước tham gia vào hoạt động xuất khẩu trong đó có công ty Dệt Hải Phòng cũng bộc lộ không ít những khuyết điểm mà trong thời gian tới cần có biện pháp khác phục.
Trong quá trình thực tập, tìm hiểu hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá tại Công Ty Dệt Hải Phòng với sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo, các phòng ban trong Công ty, cùng với sự nghiên cứu nghiệp vụ có chọn lọc cũng như ý muốn đóng góp một phần nhỏ kiến thức của mình vào giải quết những khó khăn trong công ty, tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng ” với kết cấu của luận văn bao gồm các phần:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
Chương II : Thực trạng xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng .
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng .
PHẦN HAI PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
I. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU .
1. VỊ TRÍ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG DOANH NGHIỆP.
X
uất khẩu là việc cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá (Bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Như vậy, Xuất khẩu là hoạt động tiêu thụ hàng hoá nhưng nó vượt qua khỏi biên giới quốc gia.
Đứng trên góc độ của quá trình sản xuất kinh doanh thì xuất khẩu là một khâu quan trọng và là mục tiêu của sản xuất kinh doanh. Xuất khẩu làm tăng hiệu quả của sản xuất kinh doanh, nếu tổ chức tốt sẽ kích thích sản xuất góp phần làm phát triển doanh nghiệp. Trong quá trình vận động của vốn (tiền) xuất khẩu cũng như tiêu thụ vừa là giai đoạn cuối cùng vừa là giai đoạn kết thúc của quá trình tái sản xuất này để tiếp tục vận động sang một quá trình sản xuất khác trong vòng tuần hoàn vốn.
Tư liệu lao động
Quá trình sản xuất Quá trình tiêu thụ (xuất khẩu )
Trong đó T: Tiền
H: Hàng
Ở tầm vĩ mô : Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước còn tạo điều kiện môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động bằng các chính sách khuyến khích như: chính sách đầu tư, chính sách ưu đãi, các hàng rào thuế quan, phi thuế quan ...thông qua đó để điều tiết các ngành kinh tế mũi nhọn góp phần vào công cuộc Hiện đại hoá đất nước.
2. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU
- Xuất khẩu là một khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội và có các chức năng chủ yếu sau:
+ Tạo vốn cho quá trình đầu tư trong nước bởi xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho quốc gia.
+ Chuyển hoá giá trị sử dụng, làm thay đổi cơ cấu vật chất giá trị sử dụng của tổng sản phẩm xã hội.
+ Góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh .
- Xuất khẩu thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá từ trong nước sang các nước khác và có nhiệm vụvai trò chủ yếu sau:
+ Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá đất nước. Trong nền kinh tế mở, xuất khẩu còn được sử dụng như một công cụ thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế ở trong nước và nước ngoài, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế nội bộ trong nước thông qua các hoạt động xuất khẩu .
+ Góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước: vốn, việc làm, sử dụng tài nguyên có hiệu quả. Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế còn lạc hậu việc xuất khẩu chủ yếu là tài nguyên thô hoặc qua sơ chế và các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản, tỷ trọng hàng công nghiệp chưa cao.Trong đó chủ yếu là các mặt hàng mang tính lao động thuần tuý như các sản phẩm dệt may, thủ công mỹ nghệ...
+ Đảm bảo sự thống nhất giữa nền kinh tế và chính trị trong hoạt động xuất khẩu. Nền kinh tế quốc tế cũng như nền kinh tế ở mỗi nước vận động theo nhiều xu hướng chung và cũng có nhiều lợi ích giống nhau, song cũng có những tiềm năng và những xu hướng bất ổn, cho nên sức mạnh của một nền kinh tế nền tảng phải là sự độc lập chủ quyền an ninh quốc gia. Đối với nước ta cần phát huy hết lợi thế có sẵn và tạo ra những chỗ đứng mới trên những thị trường ổn định.
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
Công tác xuất khẩu liên quan đến nhu cầu thị trường, tập quán tiêu dùng trong và ngoài nước cũng như các chính sách thuế quan, phi thuế quan của nhà nước ở các mức độ khác nhau trong đó gồm:
1.CÁC NHÂN TỐ KHÁCH QUAN
1.1 Yếu tố cung cầu của thị trường .
CĂN CỨ VÀO TỪNG CHỦ THỂ THAM GIA NHẤT ĐỊNH MÀ CÓ THỂ CHIA THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI THÀNH: THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ KHU VỰC, THỊ TRƯỜNG TRONG TỪNG TỔ CHỨC KINH TẾ QUỐC TẾ (THỊ TRƯỜNG EU, THỊ TRƯỜNG CÁC NƯỚC ASEAN...). MỞ mỗi thị trường nhu cầu sản phẩm lại thường rất khác nhau về chất lượng, quy cách cũng như mẫu mã. Do đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp khi muốn thâm nhập vào thị trường nào cần phải nghiên cứu kỹ đặc điểm tiêu dùng của thị trường đó.
Vi dụ: Nhật Bản được coi là một trong những nước trên thế giới đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao nhất, gồm cả độ bền và khả năng hoạt động. Thị hiếu của người tiêu dùng bắt chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống và điều kiện của Nhật Bản,. Đây là trở thành yếu tố quan trọng trong việc quyết định tiêu dùng sản phẩm hàng hoá. Do khủng hoảng kinh tế gần đây nên người tiêu dùng Nhật Bản thích mua hàng hoá có giá trị hợp lý. nhưngTuy nhiên xét về mặt chất lượng hàng hoá tiêu dùng thì người Nhật Bản có đòi hỏi cao nhất trên thế giới....
Sau khi nắm vững các thói quen, tập quán tiêu dùng ở mỗi thị trường doanh nghiệp phải có chiến lược cạnh tranh một cách hoàn hảo. Thị trường ở mỗi nước có thể biến động tuỳ theo thu nhập của người dân, tập quán, thị hiếu tiêu dùng cũng như những biến động ở từng thời kỳ.
1.2 Yếu tố về hàng rào thuế quan, phi thuế quan.
Thuế quan là loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá khi qua cửa khẩu của một nước.Trên thực tế khi đánh thuế có hai mục đích: có thể là mục đích tài chính và cũng có thể là mục đích bảo hộ,. cCả hai mục đích này đều có ảnh hưởng to lớn đến việc xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp vào một nước khác.
Thuế quan tài chính thông thường đánh vào những hàng hoá xuất khẩu có lợi nhuận cao hay những hàng hoá không được khuyến khích .
Thuế quan bảo hộ chủ yếu đánh vào những hàng hoá nhập khẩu, làm tăng giá của hàng nhập để hàng hoá trong nước có ưu thế hơn về giá cả của so với đối thủ cạnh tranh., tThuế quan bảo hộ là công cụ sắc bén tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước tăng nhanh sản xuất.
Khi nhà nước tăng thuế nhập khẩu, thông thườương sẽ làm cho khối lượng hàng hoá nhập khẩu giảm do giá hàng tăng hạn chế tiêu dùng. Nhưng trong một số trường hợp sẽ làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tăng lên mà số lượng hàng nhập khẩu lại không giảm, và ngược lại.
Khi thuế suất xuất khẩu tăng sẽ hạn chế xuất khẩu do giá bán hàng hoá ra thị trường cao không đủ sức cạnh tranh với hàng nước khác., bBiện pháp này nhà nước thường áp dụng với những hàng hoá không khuyến khích xuất khẩu. vVà ngược lại.
Trên thực tế, thuế quan bảo hộ không phải bao giờ cũng có tác dụng hạn chế nhập khẩu, c. Cho nên ngoài biện pháp đó nhà nước còn dùng các biện pháp phi thuế quan khác để hạn chế nhập khẩu, chúng gồm:
+ Quản lý hàng nhập khẩu bằng hạn ngạch: Biện pháp này nhằm chống lại những nhà sản xuất lớn có khả năng cạnh tranh cao, mục đích nhằm ngăn chặn hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào để bảo vệ thị trường trong nước hoặc nhằm cân bằng cán cân thanh toán, hoặc làm công cụ mặc cả trong các cuộc thương lượng, cũng có thể dùng để hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng mang tính chiến lược của nền kinh tế xã hội. Ví dụ: như gạo ở Việt Nam hiện nay.
+ Giấy phép nhập khẩu: Tính chất kín đáo và bí mật của giấy phép cũng như thủ tục cấp giấy phép của chính quyền nhà nước cũng tạo khả năng hạn chế nhập khẩu nhằm bảo hộ hàng trong nước.
+ Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu khác: Bên cạnh những biện pháp hạn chế nhập khẩu trực tiếp, Nhà nước còn dùng một số biện pháp gián tiếp nhằm ngăn cản việc nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài như: Biện pháp về vệ sinh thú y, vệ sinh thực phẩm, hoặc các tiêu chuẩn về kỹ thuật như tiêu chuẩn về kích thước, bao bì, những tiêu chuẩn về môi trường sinh thái.
Các yếu tố về thuế quan, phi thuế quan có ảnh hưởng rất lớn đến việc xuất khẩu của một doanh nghiệp vào một thị trường nước ngoài, cho nên trước khi thâm nhập hàng hoá vào một thị trường nào doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ chính sách thuế quan, phi thuế quan của nước đó.
1.3 Tín dụng xuất khẩu .
Tín dụng xuất khẩu tức là nhà nước dành cho người nước ngoài những khoản tín dụng để mua hàng nước mình. Nhà nước không chỉ trực tiếp can thiệp vào thị trường tín dụng mà còn tạo điều kiện tín dụng xuất khẩu ưu đãi hơn so với điều kiện tín dụng trong nước. Điều đó làm khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước tăng lên. Ngoài ra, Nhà nước đảm bảo gánh vác mọi rủi ro đối với khoản tín dụng mà doanh nghiệp xuất khẩu nước mình dành cho nhà nhập khẩu nước ngoài. Đây là phương tiện quan trọng đẩy mạnh việc tiêu dùng hàng hoá ở thị trường nước ngoài. Nó làm cho nhà xuất khẩu yên tâm và mở rộng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài mà không sợ gặp sự rủi ro.
1.4 Yếu tố về tỷ gía hối đoái.
Trong tình hình nền kinh tế mở rộng cửa, các mối quan hệ kinh tế ngày càng rộng thì việc thanh toán không chỉ là đơn vị tiền tệ trong nước mà còn phải sử dụng nhiều loại ngoại tệ khác nhau, từ đó phát sinh nhu cầu tất yếu phải so sánh giá trị, so sánh sức mạnh đồng tiền trong nước và đồng ngoại tệ, đó là tỷ giá hối đoái. Như vậy, tỷ giá hối đoái dùng để biểu hiện và so sánh những quan hệ về giá cả giữa các đồng tiền một nước được biểu hiện qua đơn vị tiền tệ của nước khác. Do đó hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng rất lớn của tỷ giá hối đoái. Ví dụ như khi tỷ giá hối đoái tăng nghĩa là giá trị đồng nội tệ giảm so với đồng ngoại tệ sẽ hạn chế khuyến khích xuất khẩu và tăng hạn chế nhập khẩu và ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm thì sẽ hạn chếtăng nhập khẩu và tănghạn chế xuất khẩu.
Có hai loại tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái thực tế và Tỷ giá hối đoái danh nghĩa.
Tỷ giá hối đoái thực tế có mục đích điều chỉnh mức lạm phát và để phản ánh những biến đổi thực tế trong khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của một quốc gia.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng hay do ngân hàng công bố.
Để khuyến khích xuất khẩu nhà nước có thể dùng chính sách phá giá hối đoái làm cho giá bán ở thị trường nước ngoài có thể thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh, do vậy mà đẩy mạnh xuất khẩu, và nhà xuất khẩu sẽ thu được lợi nhuận ngoài ngạch cao hơn.
2-CÁC NHÂNYẾU TỐ CHỦ QUAN
2.1 Năng lực tổ chức và trình độ cán bộ làm xuất khẩu:
Đây là một yếu tố rất quan trọng có tính quyết định rất lớn trong quá trình nâng cao doanh thu bán hàng cũng như tìm kiếm lợi nhuận, nó bao gồm các khâu tổ chức tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị, chính sách bán hàng.
Trình độ của cán bộ làm công tác xuất khẩu sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm các rủi ro trong quá trình thực hiện các công tác đàm phán ký kết hợp đồng, cũng như việc tác nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thực tế hiện nay trong một số doanh nghiệp đội ngũ cán bộ làm công tác tác nghiệp vừa yếu cả về chuyên môn lẫn ngoại ngữ, nên điều dễ hiểu là nhiều hợp đồng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam ký với nước ngoài bị rất nhiều sơ hở, yếu kém làm thua thiệt cho phía Việt Nam. Chính vì vậy, việc tổ chức và nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác xuất khẩu rất cần thiết cho các doanh nghiệp.
2.2./ Công nghệ và thiết bị công nghệ.
Công nghệ bao gồm cả công tác công nghệ và phương tiện kỹ thuật được ký kết với nhau theo hình thức thích hợp, trong đó máy móc thiết bị kỹ thuật là phương tiện kỹ thuật để thực hiện phương pháp công nghệ.
Dây chuyền công nghệ và máy móc thiết bị ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu của sản xuất, đồng thời nó quyết định tới chất lượng sản phẩm và việc thay đổi cải tiến sản phẩm. Ngoài ra nó còn thúc đẩy việc tăng năng suất lao động. Khi máy móc thiết bị của doanh nghiệp hiện đại, phù hợp với năng lực hiện có của mình thì sẽ làm cho hàng hoá có chất lượng cao, mẫu mã đẹp... và ngược lại với trường hợp máy móc thiết bị lạc hậu hoặc quá hiện đại không thể áp dụng sẽ làm cho hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được,. Như vậy có thể kết luận là trình độ và khả năng công nghệ là một loại vũ khi sắc bén để thành công trong cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Một dây chuyền công nghệ và máy móc thiết bị lạc hậu không thể sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, có nhiều tính năng đáp ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường.
2.3./ Trình độ lành nghề và bậc thợ của công nhân.
Trình độ tay nghề của công nhân phản ánh tính chất chuyên môn hoá, trình độ thành thạo nghề nghiệp. Nếu trình độ người làm công tác xuất khẩu kém sẽ làm cho doanh nghiệp thua thiệt trong đàm phán ký kết hợp đồng cũng như thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp.. Không những thế nếu trình độ nghề nghiệp của công nhân cao hơn mức yêu cầu của công việc được bố trí sẽ gây lãng phí trong việc sử dụng lao động, và ngược lại sẽ ảnh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Cho nên vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải bố trí được một cơ cấu lao động tối ưu nhằm sử dụng có hiệu qua nguồn lao động đồng thời phải thường xuyên tổ chức công tác đào tạo tay nghề cho cán bộ công nhân viên, và luôn luôn coi đó là nhiệm vụ thường xuyên của mọi doanh nghiệp.
2.4./ Giá sản phẩm.
Giá sản phẩm là biểu hiện tổng hợp của nhiều mối quan hệ kinh tế trên thị trường (Vấn đề cung cầu, lưu thông tiền tệ), c. Chính vì vậy mà giá thành sản phẩm ảnh hưởng rất lớn tới khối lượng hàng hoá xuất khẩu và lợi nhuận của các doanh nghiệp. Muốn có một sản phẩm có giá trị cạnh tranh tốt đồng thời có lợi nhuận phù hợp thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một giá bán thích hợp với thị trường. Muốn xác định giá bán này doanh nghiệp phải căn cứ vào giá bình quân của giá thị trường, giá đó được tính như sau:
GIÁ CẦU CUNG
GIÁ BÌNH QUÂN
Sản lượng bình quân Sản lượng
Nếu giá bán giá cao hơn giá bình quân của thị trường thì sản phẩm - hàng hoá có thể bán được với số lượng ít thậm chí không bán được một sản phẩm nào.
Nếu bán với giá thấp hơn giá thị trườngbình quân thì lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị giảm xuống hoặc không có lợi nhuận ( lỗ vốn).
Từ đó ta thấy muốn bán giá thấp hơn mà không ảnh hưởng tới lợi nhuận, doanh nghiệp phải tăng doanh số bán hàng, ngoài ra phải phấn đấu giảm chi phí các yếu tố đầu vào như tiết kiệm vật tư, tăng năng suất lao động, hạn chế phế phẩm, hoàn thiện bộ máy quản lý, thay đổi quy trình công nghệ.
- Chất lượng hàng hoá và mẫu mã sản phẩm được người tiêu dùng rất quan tâm tuỳ thuộc vào thị trường mỗi nước, mà. Các loại mẫu mã và chất lượng sản phẩm lại tuỳ thuộc vào tập quán người tiêu dùng cũng như phù hợp cho từng lứatheo lứa tuổi.
Do mức thu nhập bình quân ở mỗi nước là rất khác nhau nên thông thường ở các nước càng phát triển thì sự đòi hỏi về mẫu mã, chất lượng càng cao và càng khắt khe.
2.5./ Các biện pháp về hỗ trợ xuất khẩu.
Biện pháp hỗ trợ xuất khẩu bao gồm các hoạt động quảng cáo khuyết trương, tiếp thị thông qua phương tiện thông tin đại chúng, hội chợ triển lãm. Đây thực sự là một hoạt động rất cần thiết để mở rộng thị trường xuất khẩu. Thực chất của hoạt động này là tạo ra và sắp xếp các mối quan hệ trong kinh doanh vào một hệ thống đồng thời giải quyết các mối quan hệ đó, kích thích động viên người tiêu dùng mua hàng. Làm tốt công việc này doanh nghiệp sẽ đem lại :
+ Thế lực trong kinh doanh, tạo nhu cầu mới, tạo uy tín cho sản phẩm đối với người tiêu dùng.
+ Tăng doanh số bán hàng, giảm lượng hàng hoá tồn kho, ứ đọng không cần thiết.
+ Hỗ trợ công tác bán hàng xuất khẩu .
+ Kích thích nhu cầu tiêu dùng.
III. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1./ TÌM HIỂU NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG .
Trong kinh doanh nói chung không thể tách sản xuất với lưu thông vì hai khâu này gắn liền với nhau, thúc đẩy nhau phát triển, một khâu trong quá trình kinh doanh bị ách tắc sẽ gây cản trở đối với các khâu khác trong cả một hệ thống. Một trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm hàng hoá bị ứ đọng là do giá thành cao, chất lượng kém, giá cả không được người mua chấp nhận. Theo nhiều nhà kinh doanh có kinh nghiện thì ngay trong quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất sản phẩm thì cũng đồng nghĩa với việc tiến hành nghiên cứu thị trường để khi hàng hoá được sản xuất ra tiêu thụ một cách thuận lợi. Như vậy không những phải tìm hiểu thị trường trong nước mà còn phải mở rộng ra nghiên cứu thị trường nước ngoài.
1.1./ Các phương pháp nghiên cứu thị trường nước ngoài.
Khi nghiên cứu thị trường cần phải sử dụng những phương pháp thích hợp cũng như những cán bộ có năng lực và thích hợp với chuyên ngành của họ. Có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau nhưng có hai phương pháp chủ yếu đó là phương pháp nghiên cứu thị trường nước ngoài thông qua nghiên cứu tại bàn làm việc và phương pháp nghiên cứu trực tiếp trên thị trường nước ngoài.
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn làm việc là việc nghiên cứu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như sử dụng các loại báo chí, tạp chí, các loại ấn phẩm thường là các tạp chí kinh tế xuất bản định kỳ hoặc không định kỳ, các loại sách chuyên khảo, các bản thống kê, các thông báo của các công ty môi giới. Phương pháp này có ưu thế là chi phí thấp, tiết kiệm thời gian nhưng thông tin không cập nhập, dễ làm mất cơ hội trong kinh