Công cuộc đổi mới và phát triển đất nước ta bắt đầu từ năm 1986, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, tính đến nay đã hơn 20 năm. Đây là một bước nhảy vọt về tư duy lý luận của Đảng ta, chấm dứt một thời kỳ dài với nếp tư duy cũ gắn liền chế độ bao cấp, khởi nguồn cho sự ra đời và phát triển của tư duy mới đúng quy luật đầy sáng tạo. Đặc biệt là tư duy về kinh tế - một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là cái riêng có của Việt Nam tạo nên một nền kinh tế thị trường phong phú đa dạng ngày càng được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới mà trong hệ thống thị trường đó có thị trường lao động.
Ở Việt Nam, thị trường lao động được khẳng định là một loại thị trường quan trọng, cần được ưu tiên phát triển và phải được hình thành, phát triển trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng và các thể chế quản lý của Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển đúng hướng. Mục tiêu lớn nhất của việc hình thành và phát triển thị trường lao động chính là tạo điều kiện để phân bổ có hiệu quả hơn các nguồn lực lao động, sử dụng khai thác có hiệu quả tiềm năng to lớn và vô giá này - một trong những thế mạnh và là yếu tố sản xuất quan trọng của nước ta hiện nay. Phát triển thị trường lao động phải nhằm giải phóng sức lao động, tạo môi trường pháp lý, xã hội lành mạnh, thuận lợi cho người lao động và người sử dụng lao động vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy nhiên, để thị trường lao động phát triển không phải vì thế mà không tuân theo những quy luật phát triển chung của kinh tế thị trường, sự phát triển của thị trường lao động định hướng xã hội chủ nghĩa là để xây dựng một quan hệ lao động mới phù hợp và tiến bộ hơn. Sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình phát triển chỉ là để điều chỉnh loại thị trường này không bị chệch hướng.
97 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1781 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới và phát triển đất nước ta bắt đầu từ năm 1986, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, tính đến nay đã hơn 20 năm. Đây là một bước nhảy vọt về tư duy lý luận của Đảng ta, chấm dứt một thời kỳ dài với nếp tư duy cũ gắn liền chế độ bao cấp, khởi nguồn cho sự ra đời và phát triển của tư duy mới đúng quy luật đầy sáng tạo. Đặc biệt là tư duy về kinh tế - một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là cái riêng có của Việt Nam tạo nên một nền kinh tế thị trường phong phú đa dạng ngày càng được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới mà trong hệ thống thị trường đó có thị trường lao động.
Ở Việt Nam, thị trường lao động được khẳng định là một loại thị trường quan trọng, cần được ưu tiên phát triển và phải được hình thành, phát triển trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng và các thể chế quản lý của Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển đúng hướng. Mục tiêu lớn nhất của việc hình thành và phát triển thị trường lao động chính là tạo điều kiện để phân bổ có hiệu quả hơn các nguồn lực lao động, sử dụng khai thác có hiệu quả tiềm năng to lớn và vô giá này - một trong những thế mạnh và là yếu tố sản xuất quan trọng của nước ta hiện nay. Phát triển thị trường lao động phải nhằm giải phóng sức lao động, tạo môi trường pháp lý, xã hội lành mạnh, thuận lợi cho người lao động và người sử dụng lao động vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy nhiên, để thị trường lao động phát triển không phải vì thế mà không tuân theo những quy luật phát triển chung của kinh tế thị trường, sự phát triển của thị trường lao động định hướng xã hội chủ nghĩa là để xây dựng một quan hệ lao động mới phù hợp và tiến bộ hơn. Sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình phát triển chỉ là để điều chỉnh loại thị trường này không bị chệch hướng.
Phát triển thị trường lao động có vai trò rất lớn đối với cả phía người lao động, người sử dụng sức lao động và toàn xã hội. Đại hội IX cũng chỉ rõ: “Phát triển thị trường lao động; người lao động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành phần kinh tế ” và “Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông suốt để phát triển thị trường lao động, gắn kết cung cầu lao động. Đa dạng hoá các hình thức giao dịch việc làm, đảm bảo quyền của người lao động được lựa chọn chỗ làm việc. Thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cả người lao động và người sử dụng lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm và trợ cấp thất nghiệp. Tăng cường hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động này”.
Tuy nhiên, trên thực tế thị trường lao động Việt Nam nói chung và thị trường lao động tỉnh Thanh Hóa nói riêng, do mới được hình thành, đang trong quá trình phát triển và từng bước được hoàn thiện nên còn bộc lộ nhiều hạn chế. Song trong điều kiện hiện nay, tiếp tục phát triển các loại thị trường và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, trong đó có thị trường lao động đang là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan và cũng chính là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Cùng với sự phát triển chung của cả nước thị trường lao động Thanh hoá đang có những khởi sắc đánh thức dậy tiềm năng to lớn của một tỉnh đất rộng người đông này.
Thanh Hoá là một tỉnh có nhiều thuận lợi cả về vị trí địa lý điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội để phát triển thị trường lao động. Nét nổi bật của thị trường lao động Thanh Hoá hiện nay là tiềm năng lao động rất dồi dào, nhân dân có truyền thống lao động cần cù, thông minh và sáng tạo, có khả năng cung cấp lao động cho sự phát triển của thị trường lao động trong tỉnh, trong nước và quốc tế; nhưng cũng có khó khăn là một bộ phận người lao động chưa nhận thức đầy đủ về thị trường lao động; Phân bố lao động không đồng đều; Lực lượng lao động chưa qua đào tạo nghề hoặc được đào tạo nghề trình độ thấp vẫn chiếm tỷ lệ khá cao; Cơ cấu lao động chưa hợp lý...; Mặt khác, tình trạng lao động nông thôn tự do đến các thành phố lớn, các khu công nghiệp để tìm kiếm việc làm vẫn diễn ra ồ ạt gây khó khăn trong quản lý và sử dụng nguồn nhân lực của tỉnh nhà, trong khi đó đòi hỏi bức bách về phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh đất rộng, người đông, nhiều tiềm năng cần được khai thác để nhanh chóng thoát khỏi tình trạng một tỉnh nghèo có thu nhập thấp để trở thành một tỉnh công nghiệp vào năm 2020 như Nghị quyết của Đại hội 16 Đảng bộ tỉnh Thanh hoá đã nêu. Trước tình hình đó, “Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động tỉnh Thanh Hoá” chính là đề tài nghiên cứu mà tôi mạnh dạn đưa ra trong luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Khoá luận góp phần làm sáng tỏ thêm những lý luận cơ bản về thị trường lao động Việt nam nói chung và thị trường lào động tỉnh Thanh Hoá nói riêng;
- Tìm hiểu được quá trình hình thành và các điều kiện làm cơ sở để đề xuất các giải pháp phát triển thị trường lao động tỉnh Thanh Hoá trong thời gian tới;
- Thông qua việc đề xuất các giải pháp đã góp phần gợi mở hướng giải quyết những vấn đề khó khăn đang đặt ra cho thị trường lao động Thanh Hoá, để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường lao động tỉnh nhà trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những yếu tố ảnh hưởng đến thị trường lao động và một số giải pháp để phát triển thị trường lao động Thanh Hoá từ năm 1986 đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung chủ yếu chỉ ra thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và một số phương pháp nghiên cứu khác như:
- Phương pháp phân tích tổng hợp;
- Phương pháp so sánh, khái quát hóa;
- Phương pháp thống kê.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài Lời nói đầu, kết luận, mục lục và phụ lục, luận văn gồm có 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về thị trường lao động
Chương II: Thực trạng phát triển thị trường lao động tỉnh Thanh Hoá
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động tỉnh Thanh Hoá.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
Thị trường lao động là một loại thị trường đặc biệt trong hệ thống các loại thị trường. Ở Việt Nam, thị trường lao động mới được hình thành và có những bước phát triển mạnh trong những năm gần đây do được sự quan tâm rất lớn từ phía Đảng và Nhà nước cũng như thu hút được sự hợp tác, đầu tư của nước ngoài.
Phát triển thị trường lao động không chỉ đơn thuần là sự tăng lên về số lượng lao động mà nó còn bao gồm cả về chất lượng và các yếu tố tác động đến thị trường lao động. Việt Nam vốn là nước có dân số đông (đứng thứ 13 trên thế giới và xếp thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á), có lực lượng lao động dồi dào, trung bình hàng năm được bổ sung khoảng 1,2 triệu lao động/năm. Tuy nhiên, với điều kiện đó là chưa đủ để thị trường lao động phát triển, phát triển thị trường lao động chính là quá trình phát triển các yếu tố cấu thành nên thị trường như: cung - cầu và quan hệ cung - cầu lao động cả về quy mô, cơ cấu, trình độ, tính chất hoạt động của các yếu tố đó... Quá trình phát triển của thị trường lao động đòi hỏi phải tuân theo các quy luật chung của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh cũng như chịu sự chi phối, quản lý của Nhà nước.
Để làm sáng tỏ vấn đề về phát triển thị trường lao động, người viết xin được đề cập đến một số vấn đề thuộc về lý luận chung của thị trường lao động thế giới cũng như là ở Việt Nam.
1. Khái niệm về thị trường lao động
1.1. Các quan niệm về thị trường lao động
Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chế độ tư bản chủ nghĩa mà là sự phát triển của sản xuất hàng hoá tất yếu dẫn đến việc hình thành kinh tế thị trường. Vì thế, đó không phải là giai đoạn độc lập, đứng ngoài kinh tế hàng hoá, song cũng không thể đồng nhất kinh tế hàng hoá với kinh tế thị trường, mà nó là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, là sản phẩm tất yếu của tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại.
Thị trường có thể hiểu là nơi trao đổi, mua bán và diễn ra các quan hệ kinh tế giữa người bán và người mua hàng hoá và dịch vụ.
Có nhiều cách để phân loại thị trường, song phân loại thị trường căn cứ vào đối tượng mua bán trên thị trường là cách phân loại được áp dụng phổ biến hơn cả. Theo đó có các loại thị trường sau:
Thị trường hàng hoá và dịch vụ;
Thị trường tài chính;
Thị trường bất động sản;
Thị trường lao động (thị trường sức lao động);
Thị trường Khoa học công nghệ.
Trong số đó, thị trường lao động được coi là thị trường lớn nhất và quan trọng nhất. Nhưng, hiện nay vẫn còn có nhiều quan niệm khác nhau về thị trường lao động.
Thị trường lao động (Labour Market) theo ILO (Tổ chức lao động thế giới) cho rằng: "Thị trường lao động là thị trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua một quá trình để xác định mức độ có việc làm của lao động cũng như mức độ của tiền lương". Với quan niệm này, thị trường lao động chính là nơi toàn bộ các quan hệ kinh tế được hình thành trong quá trình trao đổi, mua bán sức lao động. Và nó được nhấn mạnh đến yếu tố việc làm được trả lương, do đó trên thị trường này, tuỳ vào giá trị sức lao động, điều kiện tiêu hao sức lao động (mức độ nặng nhọc, phức tạp của công việc và điều kiện làm việc) cũng như giá cả sức lao động trên thị trường để cùng nhau thoả thuận tiền công, tiền lương.
Theo nhà kinh tế học Adam Smith thì thị trường lao động là không gian trao đổi dịch vụ lao động (hàng hoá sức lao động) giữa một bên là người mua sức lao động (chủ sử dụng sức lao động) và người bán sức lao động (người lao động). Các bên thực hiện quan hệ giao dịch thông qua thị trường, thỏa thuận với nhau về tiền công, tiền lương, điều kiện lao động và các vấn đề khác có liên quan.
Ở Việt Nam, khái niệm về thị trường lao động cũng rất phong phú và đa dạng Tại Đại hội Đảng IX, Đảng ta xác định: “thị trường lao động là thị trường mua bán các dịch vụ của người lao động, về thực chất là mua bán sức lao động, trong một phạm vi nhất định. Ở nước ta, hàng hoá sức lao động được sử dụng trong các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp tư bản nhà nước, các doanh nghiệp tiểu chủ và trong các gia đình neo đơn thuê mướn người làm dịch vụ trong nhà. Trong các trường hợp có người đi thuê, có người đi làm thuê, có giá cả sức lao động dưới hình thức tiền lương, tiền công”.
Và các nhà khoa học kinh tế Việt Nam cũng đưa ra nhiều cách hiểu về thị trường lao động: “Thị trường lao động (hoặc thị trường sức lao động) là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động (người lao động đi làm thuê) và người mua sức lao động (người sử dụng sức lao động), thông qua các hình thức thoả thuận về giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thoả thuận khác”.
Thị trường lao động là một vấn đề phức tạp và đến nay vẫn chưa có một khái niệm nào được coi là khuôn mẫu chung. Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau, song các quan niệm đều đề cập đến đối tượng trao đổi trên thị trường, các yếu tố tác động đến thị trường lao động cũng như các bên tham gia trong quan hệ thuê mướn lao động. Thị trường lao động Việt Nam là thị trường lao động định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh sự quản lý và điều tiết thì nhà nước vẫn tôn trọng và đảm bảo sự vận động theo các quy luật khách quan của thị trường để thị trường lao động Việt Nam vừa phát triển theo xu thế chung của thời đại, vừa đảm bảo đi đúng định hướng và khắc phục được những ảnh hưởng tiêu cực từ mặt trái kinh tế thị trường.
Tóm lại, thị trường lao động có thể được hiểu là nơi gặp gỡ và trao đổi các dịch vụ lao động; là nơi diễn ra các quan hệ kinh tế, pháp lý giữa một bên là người sở hữu sức lao động (người bán sức lao động) và một bên là người cần sử dụng sức lao động (người chủ sử dụng sức lao động) nhằm xác định số lượng và chất lượng lao động đem ra trao đổi cũng như mức thù lao tương ứng và các điều kiện để làm việc.
1.2. Bản chất của thị trường lao động
Như đã nói trên, thị trường lao động là một loại thị trường đặc biệt và có vị trí quan trọng hàng đầu trong hệ thống các loại thị trường cấu thành nên nền kinh tế thị trường. Sự đặc biệt và tính quan trọng hàng đầu đó xuất phát bởi nó liên quan trực tiếp đến con người, đến giá trị sức lao động của con người trong quá trình mang ra mua bán, trao đổi với tư cách là một loại hàng hoá đặc biệt.
Sức lao động là sức của cơ bắp, sức của hệ thần kinh nằm trong cơ thể của con người, nó phụ thuộc vào thể lực và trí lực của con người. Sức lao động được biểu hiện ra sức khỏe, sự dẻo dai, ở trình độ chuyên môn, năng lực và kinh nghiệm làm việc của mỗi con người. Song, nó là một loại hàng hoá đặc biệt, tính đặc biệt đó được thể hiện:
- Hàng hoá sức lao động nằm ở bên trong cơ thể con người, nó chỉ biểu hiện ra trong quá trình sử dụng sức lao động mà người mua hàng hoá sức lao động không thể nhìn thấy được;
Nếu trong thị trường hàng hóa và dịch vụ, các sản phẩm mang ra trao đổi trên thị trường, giá trị của hàng hoá đó được thanh toán và trở thành sở hữu của người mua thì trong thị trường lao động, giá trị sức lao động chỉ thể hiện trong quá trình lao động và khi mua bán sức lao động, người chủ sở hữu sức lao động vẫn là chủ sở hữu sức lao động của mình, sức lao động không bị tách rời và không thể bị tách rời.
- Quá trình mua và bán sức lao động phải tuân thủ theo pháp luật về lao động như: Bộ luật Lao động, các quy định về hợp đồng lao động...
- Về mặt giá trị, hàng hoá sức lao động tạo ra giá trị cao hơn so với các loại hàng hoá khác.
Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau khi xác định đối tượng mua bán của thị trường lao động. Có nhóm ý kiến cho rằng trên thị trường lao động, người ta mua và bán “lao động”; Một nhóm khác lại cho rằng trên thị trường lao động “sức lao động được mua và bán”...
Theo quan điểm của C. Mác, ông cho rằng, đối tượng mua bán trên thị trường lao động là sức lao động. Theo ông, sức lao động được hiểu là tổng hợp toàn bộ thể lực và trí lực ở con người, nó nói lên khả năng để có lao động; Còn lao động là hoạt động có mục đích của con người, nó là sự tiêu dùng sức lao động trong quá trình lao động. Giữa sức lao động và lao động có mối quan hệ không thể tách rời, lao động không thể trở thành hiện thực nếu không có sức lao động và ngược lại, muốn sử dụng sức lao động thì nhất thiết phải có lao động. Và C. Mác cũng cho rằng, để sức lao động trở thành hàng hoá phải có 2 điều kiện cơ bản:
- Người lao động được tự do về thân thể;
- Người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, họ phải bán sức lao động đi như một phương tiện để kiếm sống.
Cho đến ngày nay, khi xã hội loài người đã có nhiều biến đổi to lớn, nhưng quan điểm của Mác vẫn giữ nguyên tính đúng đắn của nó.
Về mặt lý thuyết, nếu căn cứ vào đối tượng mua bán trên thị trường là “hàng hoá sức lao động” thì phải gọi thị là "thị trường sức lao động" mới đúng. Song, trên thực tế, trong các văn bản chính thống của ILO cũng như nhiều nước khác, trong đó có Việt Nam thường gọi là “thị trường lao động”, nhưng bản chất của thuật ngữ vẫn được hiểu là “thị trường sức lao động”. Và để thống nhất cách gọi, trong luận văn sử dụng cách gọi là “thị trường lao động” trong suốt quá trình trình bày.
Như vậy, xét về bản chất, trên thị trường lao động, đối tượng được mang ra mua bán trên thị trường là “sức lao động” với tư cách là một loại hàng hoá đặc biệt trên một thị trường đặc biệt. Không có hàng hoá sức lao động thì không thể có thị trường lao động, sức lao động chỉ trở thành hàng hoá trong những điều kiện nhất định, khi đó thị trường sức lao động mới được hình thành thông qua quá trình mua bán sức lao động của các chủ thể tham gia vào thị trường lao động.
Mặt khác, với tư cách là một loại hàng hoá, sức lao động cũng có số lượng và chất lượng. Về số lượng, sức lao động phụ thuộc vào số lượng người lao động và ở thời gian lao động của mỗi người; Còn chất lượng sức lao động không chỉ đơn thuần là trình độ tay nghề kỹ năng của người lao động mà còn được thể hiện ra bởi ý thức chấp hành kỷ luật, tác phong lao động, sức khoẻ và sự tận tuỵ với công việc... Tất cả các yếu tố trên đều chi phối đến khả năng tìm kiếm việc làm của người lao động và ảnh hưởng đến mức thù lao mà họ có thể nhận được sau khi lao động.
1.3. Đặc điểm của thị trường lao động
Là một bộ phận quan trọng hợp thành của hệ thống thị trường nên cũng giống như các loại thị trường khác, thị trường lao động cũng mang những đặc điểm chung của thị trường. Tuy nhiên với tư cách là một hàng hoá đặc biệt, thị trường sức lao động có những nét đặc trưng sau:
- Cùng với tiền vốn, khoa học công nghệ và tài nguyên, sức lao động được coi là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Song đây là yếu tố đầu vào có ý nghĩa quan trọng nhất, ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sản xuất vì không có lao động thì không thể diễn ra các hoạt động sản xuất, kinh doanh;
- Quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường lao động là quan hệ hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa các bên trong quan hệ lao động (về việc làm, nghỉ ngơi, tiền công, tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động và các điều kiện làm việc khác);
- Thị trường lao động có tính đa dạng và phức tạp. Tính đa dạng và phức tạp đó được thể hiện trong thực tiễn phát triển của nó với nhiều phân lớp khác nhau như: thị trường lao động trí óc, thị trường lao động chân tay; thị trường lao động trong nước, thị trường lao động ngoài nước; thị trường lao động nông thôn và thị trường lao động thành thị...
- Trong quá trình mua bán, hàng hoá sức lao động không tách rời quyền sở hữu của chủ sở hữu hàng hoá sức lao động. Người mua sức lao động không thể thấy được chất lượng hàng hoá sức lao động, nó chỉ được bộc lộ ra trong quá trình lao động.
- Thị trường lao động chịu sự ảnh hưởng của các loại hình thị trường khác, đặc biệt là sự phát triển của thị trường sản xuất hàng hoá và dịch vụ đã ảnh hưởng trực tiếp đến cầu lao động; hay sự phát triển của thị trường khoa học công nghệ cũng tác động đến cung lao động...
- Thị trường lao động chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như: kinh tế, chất lượng lao động, văn hoá, tâm lý, chính trị, xã hội... Các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường lao động thông qua trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo... trong quá trình làm việc của người lao động.
- Thị trường lao động chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Thông qua hệ thống thể chế thị trường lao động, Nhà nước tác động đến thị trường lao động, điều chỉnh các hoạt động trên thị trường để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra; đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể tham gia được thực hiện.
* Khái quát chung
Thị trường lao động phải được hiểu là thị trường sức lao động, bao gồm các hoạt động thuê mướn lao động và cung ứng lao động để thực hiện những công việc nhất định và qua đó để xác định tiền lương phải trả cho người lao động.
Thị trường lao động là một khái niệm rất khái quát mà đến nay vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau về nó. Trong hệ thống thị trường, thị trường lao động được thừa nhận là thị trường lớn nhất và quan trọng nhất. Để hình thành thị trường lao động cần có những điều kiện nhất định, trong đó có việc thừa nhận sức lao động là hàng hoá đặc biệt, chịu sự tác động của các quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và hướng tới thoả mãn tối đa các quyền, lợi ích của các bên tham gia.
Trong nền kinh tế thị trường, các “hợp đồng lao động” hay “thoả ước lao động tập thể” được coi là điều kiện ràng buộc trách nhiệm mang tính pháp lý đối với các quan hệ mua bán sức lao động trên thị trường. Hiện nay, tham gia thị trường lao động, ngoài người lao động; người sử dụng lao động còn có các tổ chức môi giới trung gian thực hiện chức năng cung ứng các dịch vụ lao