Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nghành du lịch đã đạt được một số thành tựu
nhất định cũng do đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và vai trò quản lý của nhà nước. Bên cạnh
thành quả đạt được thực tiễn đang đặt ra những vấn đề bức bách nếu không giải quyết sẽ làm cản trở
bước phát triển chung của Vùng. Vì vậy, vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch cần phải
được nhìn nhận cách đúng đắn nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 458 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp về quản lý nhà nước cho du lịch tại Đồng Bằng Sông Cửu Long trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CHO DU LỊCH TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Nguyễn Hoàng Phương*
TÓM TẮT
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nghành du lịch đã đạt được một số thành tựu
nhất định cũng do đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và vai trò quản lý của nhà nước. Bên cạnh
thành quả đạt được thực tiễn đang đặt ra những vấn đề bức bách nếu không giải quyết sẽ làm cản trở
bước phát triển chung của Vùng. Vì vậy, vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch cần phải
được nhìn nhận cách đúng đắn nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Từ khóa: Quản lý nhà nước về du lịch tại Đồng Bằng Sông Cửu Long
THE STATE MANAGEMENT SOLUTIONS FOR MEKONG DELTA IN THE
MARKET ECONOMY.
ABSTRACT
After 20 years of innovation, VietNam tourism has gained the achievements thank to the lead of
Communist Party of Vietnam and the management of government. However, there are some problems,
difficulties which delay the development of Mekong delta area, are important to be solved. The state
management plays an important part in tourist operation so that it is necessary to strengthen state
management of tourism in this market economy.
Key words: the state management of tourism in Mekong delta.
* TS. GV. Học viện Chính trị khu vực 2
69
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm 1996, đã có quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch đồng bằng sông Cửu Long
gắn với phát triển du lịch thành phố Hồ Chí
Minh và Tiểu vùng sông MêKông mở rộng. Các
địa phương trong Vùng, đặc biệt là những địa
phương trọng điểm các chính sách quy hoạch
phát triển đã được triển khai thực hiện, tuy
nhiên vẫn còn nhiều hạn chế nhất định do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan. Công
tác quản lý Nhà nước đối với phát triển du lịch
chậm được đổi mới. Luật du lịch và các luật,
pháp lệnh liên quan, hệ thống văn bản pháp quy
hướng dẫn thi hành còn thiếu đồng bộ và chưa
huy động được các nguồn lực cho phát triển du
lịch. Nhiều chính sách còn chồng chéo, trói chân
lẫn nhau vì thế cần có những giải pháp nhằm cải
thiện quản lý nhà nước để phát triển bền vững
du lịch đồng bằng sông Cửu Long.
2. CÁC VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CHO DU LỊCH ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG HIỆN NAY
Thủ tướng chính phủ quyết định phê duyệt
“Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Đồng
bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030” với đề án này du lịch ĐBSCL
có nhiều thay đổi tích cực nhưng vẫn còn nhiều
thách thức.
2.1. Tích cực
Ngành du lịch vùng Đồng bằng sông
Cửu Long đã khai thác đặc thù riêng để có sản
phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn du khách hơn
so với trước đây. Ví dụ tỉnh An Giang đã dựa
trên những thế mạnh từ văn hóa, phong tục tập
quán, tín ngưỡng dân gian hay đặc trưng về địa
hình, khí hậu... để xây dựng, làm mới sản phẩm
du lịch văn hóa gắn với các lễ hội truyền thống,
tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc, như Lễ hội Vía Bà
Chúa xứ núi Sam, lễ hội đua bò Bảy Núi, từ
đó triển khai phát triển 4 loại hình du lịch gồm
du lịch tâm linh; du lịch tham quan, nghỉ dưỡng;
du lịch sinh thái, sông nước; du lịch tham quan
các di tích văn hóa, lịch sử. Nhờ đó những năm
gần đây lượng du khách đến với An Giang năm
sau luôn cao hơn năm trước điển hình năm 2016
đón khoảng 6,7 triệu lượt khách và năm 2017 đã
đón khoảng 7,3 triệu lượt khách. Đối với tỉnh Bến
Tre chọn loại hình du lịch sinh thái, du lịch tham
quan di tích văn hóa, lịch sử; du lịch tâm linh,
du lịch cộng đồng gắn với làng nghề là những
loại hình đặc thù để tập trung xây dựng phát triển.
Nhờ đó mà du lịch Bến Tre có nhiều khởi sắc,
đón hơn 1,2 triệu lượt khách trong 9 tháng đầu
năm 2018 tăng 24,2% so với 2017, doanh thu đạt
hơn 1000 tỉ đồng, tăng 28.2% so với 2017. Còn
đối với toàn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long 9
tháng đầu năm 2018 đón hơn 30tr lượt khách,
tăng 12% so với cùng kỳ năm trước.
Đối với cơ sở hạ tầng du lịch hiện nay
các tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL đã đầu tư mở
rộng, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành
khách sạn, các khu du lịch tổng hợp chất lượng
cao, cơ sở vui chơi giải trí và cung cấp các dịch
vụ đạt tiêu chuẩn quốc tế. Trong năm 2017 có
07 khu điểm du lịch tiêu biểu, 17 khách sạn đạt
chuẩn từ 2 đến 3 sao và nhiều khách sạn nhà
nghỉ đạt chuẩn phục vụ khách du lịch.
Các tuyến du lịch được hình thành.
ĐBSCL đã hình thành 02 cụm liên kết hợp tác
phát triển du lịch trong vùng gồm cụm phía Tây
với các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ,
Bạc Liêu, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cà Mau và
cụm phía Đông Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh,
Vĩnh Long, Long An. Hình thành tour du lịch
nhiều địa phương một điểm đến, nhiều quốc gia
một điểm đến. Đặc biệt là các tuyến chiến lược
5 địa phương một điểm đến (Long An – Tiền
Giang – Đồng Tháp – An Giang – Kiên Giang).
Tiểu vùng Đồng Tháp Mười đã kết nối TPHCM
ký kết tour “Một hành trình, ba điểm đến”tạo
điều kiện cho các tỉnh trong khu vực ĐBSCL
liên kết để hợp tác phát triển du lịch.
2.2. Hạn chế
Tuy rằng du lịch Đồng bằng sông Cửu
Long đang dẫn phát triển và có những dấu hiệu
tích cực. Tuy nhiên việc phát triển du lịch còn
Một số giải pháp về quản lý nhà nước ...
70
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
tồn tại nhiều hạn chế thách thức cần phải quan
tâm. Theo quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đến năm 2020,
vùng sẽ đón khoảng 34 triệu lượt khách, trong
đó 3,5 triệu lượt khách quốc tế và đạt 25.000 tỷ
đồng doanh thu. Tuy nhiên so với tiềm năng của
vùng, kết quả thu hút, phát triển du lịch chưa
đạt như mong muốn, chưa tương xứng với tiềm
năng. Điều này có thể thấy rõ khi trong 6 tháng
đầu năm 2018, vùng Đồng bằng sông Cửu Long
chỉ đón được gần 1,6 triệu trong tổng số hơn
7,8 triệu lượt du khách quốc tế đến Việt Nam.
Thực tế du khách tới Đồng bằng sông Cửu Long
chủ yếu là đến và đi trong ngày, thời gian lưu
trú ngắn, chi tiêu ít khiến doanh thu thấp. Hiện
tỷ lệ lưu trú của khách ở vùng chỉ đạt trung
bình 1,95 ngày với khách quốc tế, 1,7 ngày với
khách trong nước. Ngoài ra, các tỉnh trong vùng
ĐBSCL vẫn loay hoay với việc định hình đâu là
sản phẩm du lịch đặc thù khi mà địa phương nào
cũng có những sản phẩm gần giống nhau. Hầu
hết các địa phương trong vùng đều dựa vào tài
nguyên du lịch sẵn có để phát triển du lịch. Do
vậy, các sản phẩm du lịch chủ yếu tập trung vào
việc: Chở khách tham quan bằng tàu, thuyền;
Đưa khách tham quan miệt vườn; Biểu diễn
Đờn ca tài tử; Tham quan tìm hiểu tại các Vườn
quốc gia. Du khách chỉ cần đến một tỉnh là biết
sản phẩm du lịch của cả vùng. Chính tình trạng
trùng lặp về sản phẩm du lịch sông nước, du lịch
sinh thái giữa các địa phương trong vùng diễn
ra phổ biến đã làm giảm tính hấp dẫn của du
lịch ĐBSCL. Điều này cho thấy việc quy hoạch
cũng như quản lý hoạt động phát triển du lịch
còn nhiều lỗ hổng và chưa phù hợp về sản phẩm
cũng như hình thức du lịch.
Việc quản lý nhà nước về du lịch vẫn còn
những hạn chế, bất cập cụ thể như trong các lĩnh
vực: vệ sinh môi trường, đảm bảo chất lượng
sản phẩm, ứng dụng những công nghệ mới trong
hoạt động du lịch, đảm bảo vệ sinh thực phẩm và
trong tuyên truyền quảng bá sản phẩm du lịch...
Chưa thực sự quan tâm và có những chính
sách đầu tư, phát triển, đào tạo nhân lực thiết
thực hiệu quả, còn thiếu những trường, trung
tâm đào tạo nhân lực du lịch chuyên nghiệp.
Dẫn đến việc nguồn nhân lực du lịch trực tiếp,
gián tiếp và tự phát trong vùng chiếm gần 70%,
hầu hết là không chuyên nghiệp, chưa qua đào
tạo về nghiệp vụ, giao tiếp, văn hóa, lịch sử
truyền thống và tâm linh của vùng, khiến du
khách còn phiền lòng về cung cách phục vụ, về
hiện tượng chèo kéo và bán hàng giá cao khi
tham quan chợ nổi hay du thuyền trên sông.
Con người chính là bộ mặt của du lịch, vì vậy
rất cần chung tay xây dựng cho ĐBSCL một
lực lượng lao động du lịch lành nghề, có chiều
sâu và có tính chuyên nghiệp vừa mang tính
hiện đại trong xu thế hội nhập quốc tế vừa có
tính truyền thống mang bản sắc dân tộc nói
chung và vùng ĐBSCL nói riêng.
Còn nhiều bất hợp lý, cơ chế phối hợp
giữa các ban ngành liên quan đến du lịch chưa
rõ ràng, còn có sự chồng chéo. Các doanh nhiệp
kinh doanh du lịch bị quản lý bởi 4, 5 đầu mối,
từ đó gây khó khăn cho doanh nghiệp. Thiếu
một cơ chế phối hợp và hợp tác giữa các doanh
nghiệp trong ngành du lịch để có một tiếng nói
chung, phát huy được sức mạnh của ngành du
lịch đồng bằng sông Cửu Long. Các doanh
nghiệp vẫn còn chưa chủ động trong việc liên
kết để phát triển sản phẩm, xúc tiến quảng bá,
đặc biệt là trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực
phục vụ cho du lịch.
Bộ máy của ngành có đổi mới nhưng chưa
thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả; quản lý liên
ngành, liên vùng rất yếu “mạnh ai nấy làm”.
Công tác quản lý và thực hiện quy hoạch du lịch
còn nhiều bất cập. Công tác quản lý đảm bảo
phát triển bền vững, an ninh, an toàn, văn minh
du lịch còn thiếu kinh nghiệm và chưa có tầm
nhìn dài hạn; quản lý bảo tồn và phát huy giá
trị di sản, bảo vệ môi trường chưa đáp ứng yêu
cầu. Nhận thức về du lịch cả ở cấp quản lý nhà
nước, quản lý kinh doanh và trong nhân dân còn
thấp, tầm nhìn ngắn hạn trong tư duy chịu tác
71
động của nhóm lợi ích cục bộ do vậy vẫn còn
khoảng cách xa so với yêu cầu phát triển.
Một trong những hạn chế quan trọng trong
quản lý có ảnh hưởng lớn đến phát triển du lịch
đồng bằng sông Cửu Long là việc chưa tạo được
sự liên kết du lịch giữa các địa phương trong
Vùng. Do điều kiện thời tiết, khí hậu, văn hóa có
sự tương đồng giữa các địa phương trong vùng
nên sản phẩm du lịch đặc thù ở mỗi địa phương
chưa được xác định rõ nên xảy ra hiện tượng
trùng lắp, tạo nên sự cạnh tranh kém hiệu quả
trong nội bộ Vùng. Một vấn đề khác cần được
quan tâm đó là tình trạng “chia cắt” trong khai
thác tài nguyên du lịch, dẫn đến sự phân tán,
manh mún trong du lịch vùng đồng bằng sông
Cửu Long. Hiện tại, vấn đề liên kết phát triển
du lịch chung của Vùng với các vùng khác trên
cả nước, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh và
vùng Đông Nam Bộ vẫn còn hạn chế. Giữa các
điểm đến, các cơ sở du lịch vẫn chưa hình thành
được cơ chế hợp tác, điều này đã trở thành một
trong những nguyên nhân gây hạn chế các dòng
khách đến đồng bằng sông Cửu Long. Các địa
phương trong Vùng vẫn còn bị động, phát triển
du lịch theo tư duy dàn trải và mang tính cục
bộ, chỉ dựa vào những tiềm năng và lợi thế của
mình về tài nguyên, nguồn lực hiện có của địa
phương,chưa tạo được sự liên kết giữa các địa
phương và đôi khi còn xảy ra cạnh tranh giữa
các địa phương trong vùng. Để du lịch đồng
bằng sông Cửu Long phát triển có hiệu quả, thì
vấn đề liên kết cần được đặt lên hàng đầu và cần
phải liên kết một cách toàn diện từ sản phẩm du
lịch, tiếp thị, quảng bá, phát triển cơ sở hạ tầng,
đào tạo nguồn lực,đến liên kết giữa các doanh
nghiệp du lịch của Vùng với các vùng và các địa
phương khác.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỂ PHÁT
TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐBSCL TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Cần có cơ chế phối hợp giữa Chính phủ,
các bộ ngành liên quan với chính quyền các địa
phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long
để phát triển du lịch. Phát huy vai trò của Hiệp
hội du lịch Vùng, kết nối giữa các địa phương,
các doanh nghiệp hoạt động du lịch trong Vùng.
Mỗi địa phương trong Vùng cần cử một phó chủ
tịch tỉnh chuyên trách theo dõi, quản lý, phối
hợp các hoạt động du lịch trong Vùng. Kịp thời
tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động du lịch.
Thường xuyên tập huấn cho cán bộ quản lý hoạt
động du lịch trong Vùng để nâng cao trình độ và
hiệu quả quản lý.
Để phát triển du lịch vùng đồng bằng sông
Cửu Long đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực và hiệu
quả của Nhà nước từ Trung ương, chính quyền
các địa phương trong Vùng. Thời gian tới, vai
trò quản lý của nhà nước cần tập trung vào
những nội dung chính sau:
- Cần có sự phối hợp giữa các Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch với các bộ, ngành Trung
ương và các địa phương trong vùng để nghiên
cứu, đánh giá toàn diện, đảm bảo tính đồng bộ,
hệ thống về thực trạng và tiềm năng phát triển
du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trên cơ
sở đó, đề ra chiến lược, kế hoạch dài hạn phát
triển du lịch với những phương thức, bước đi và
lộ trình thích hợp.
- Tăng cường sự liên kết vùng trong phát
triển du lịch: hoạt động du lịch là hoạt động
không có ranh giới hành chính vì vậy sự liên
kết giữa các địa phương trong vùng đồng bằng
sông Cửu Long có ý nghĩa rất quan trọng. Sự
liên kết này cho phép khai thác có hiệu quả
những tiềm năng du lịch trên những lãnh thổ
hành chính khác nhau, phát triển những sản
phẩm du lịch có khả năng bổ sung cho nhau
tạo nên các tour du lịch liên vùng hấp dẫn, tạo
được hình ảnh du lịch chung cho một khu vực
trong khi giảm được chi phí xúc tiến, tuyên
truyền quảng cáo, v.v. Tính liên kết này trong
hoạt động phát triển du lịch càng trở nên quan
trọng trong xu thế hội nhập của du lịch Việt
Nam với khu vực và quốc tế.
- Để tránh tình trạng trùng lặp sản phẩm du
Một số giải pháp về quản lý nhà nước ...
72
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
lịch, cơ quản quản lý nhà nước cần có quy hoạch
rõ hơn về sản phẩm đặc thù của từng địa phương
hoặc có thể liên kết những tỉnh có cùng điều kiện
cũng như tiềm năng phát triển gần giống nhau lại
để tập trung đẩy mạnh, khai thác. Qua đó tránh
việc phát triển tràn lan, tự phát, trùng lặp gây
nhàm chán, mờ nhạt đối với du khách.
- Hình thành Ban Điều phối phát triển du
lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long để thực
hiện vai trò nhạc trưởng cho các hoạt động liên
kết phát triển du lịch trong vùng. Trên cơ sở có
được quy chế hoạt động rõ ràng, Ban Điều phối
phát triển du lịch vùng đồng bằng sông Cửu
Long chủ trì triển khai huy động Quỹ Phát triển
du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long; đề xuất
dự án hỗ trợ hạ tầng, các hạng mục đầu tư phát
triển du lịch vùng; thực hiện các hoạt động xúc
tiến quảng bá du lịch vùng; chủ động phối hợp
với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các địa
phương tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn, nâng
cao trình độ, kỹ năng, tay nghề đội ngũ làm du
lịch; thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển
du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long; xây
dựng nhãn, tiêu chí nhãn và phát triển nhãn “Sản
phẩm du lịch đồng bằng sông Cửu Long”.
- Nghiên cứu sửa đổi bổ sung các chính
sách, thể chế, cơ chế vể du lịch vùng đồng bằng
sông Cửu Long, hoàn thiện Luật du lịch để tạo
môi trường pháp lí thuận lợi cho phát triển du
lịch cả nước nói chung và cho đồng bằng sông
Cửu Long nói riêng.
- Nâng cao trình độ và năng lực quản lí
nhà nước ở các địa phương, phải có cơ chế phối
hợp liên ngành, lĩnh vực của Vùng để phát triển
du lịch đồng bằng sông Cửu Long.
- Xây dựng các chiến lược phát triển du
lịch của Vùng và các địa phương trong Vùng
đồng bằng sông Cửu Long đảm bảo hiệu quả,
chất lượng và tính khả thi cao.
- Áp dụng hệ thống các tiêu chuẩn ngành
du lịch, tăng cường kiểm tra, giám sát nhằm duy
trì chất lượng sản phẩm dịch vụ, thiết lập hệ
thống đánh giá và quản lý chất lượng du lịch qua
đó tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho tất
cả các đơn vị tham gia tổ chức du lịch của đồng
bằng sông Cửu Long.
- Trong quản lý có sự phân cấp, đảm bảo
vai trò quản lý vĩ mô khuyến khích sự tham gia
tích cực của cộng đồng dân cư trong vùng cũng
như tạo sự chủ động cho doanh nghiệp khi tham
gia các hoạt động du lịch. Nhà nước và chính
quyền địa phương trong Vùng cần hỗ trợ việc
đưa công nghệ quản lý tiên tiến vào việc kinh
doanh du lịch.
- Thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp
du lịch nhà nước ở đồng bằng sông Cửu Long,
khuyến khích phát triển các doanh nghiệp du
lịch vừa và nhỏ sử dụng nguồn lực sẵn có của
người dân trong Vùng để khai thác hết lợi thế
của du lịch đồng bằng sông Cửu Long.
- Nhà nước và chính quyền địa phương
trong Vùng cần hỗ trợ việc đưa công nghệ quản
lý tiên tiến vào việc kinh doanh du lịch.
- Các tỉnh, thành trong vùng đồng bằng
sông Cửu Long cần thắt chặt mối liên kết, hợp
tác để xây dựng các chương trình, dự án phát
triển sản phẩm du lịch đặc thù của từng địa
phương, của vùng. Sự liên kết này phải được
xây dựng trên cơ sở các đề án “Phát triển du lịch
vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020”,
“Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù vùng đồng
bằng sông Cửu Long”; các giá trị văn hóa truyền
thống, các điều kiện tự nhiên mang tính bản địa
của từng địa phương để tránh trùng lắp, kém
hiệu quả.
- Phát huy vai trò quản lý nhà nước về
lĩnh vực du lịch đối với tất cả đối tượng, thuộc
mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh
du lịch và dịch vụ du lịch trên địa bàn. Tiếp tục
cải cách hành chính tạo thuận lợi cho các thành
phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển du lịch
theo cơ chế một cửa. Ngoài ra, cần sắp xếp ổn
định tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản
lý du lịch, giải quyết kịp thời khó khăn vướng
mắc của các doanh nghiệp du lịch, tạo sự gắn
73
bó, hợp tác vì mục tiêu phát triển du lịch vùng
đồng bằng sông Cửu Long.
- Chú trọng nâng cao nhận thức của các
cấp, các ngành và người dân trong Vùng về vị
trí, vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế
- xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ đó,
nâng cao hiệu quả xã hội và bảo vệ môi trường
trong phát triển du lịch Vùng đồng bằng sông
Cửu Long.
Mặc dù không phải là yếu tố trực tiếp tác
động đến phát triền lịch của Vùng, nhưng quản
lí Nhà nước đóng vai trò là chất xúc tác, kim
chỉ nam cho mọi hoạt động du lịch đi đúng với
đường lối, chính sách chung của Đảng và Nhà
nước, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của du
lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng
và của cả nước nói chung, tạo nền tảng cho việc
tiến đến hội nhập quốc tế.
4. KẾT LUẬN
Phát triển du lịch là vấn đề cần sự phối hợp
của rất nhiều bên từ Nhà nước, doanh nghiệp
đến người dân. Trong đó, quản lý nhà nước đóng
vai trò then chốt trong việc định hướng, đưa ra
những công cụ, chính sách để thúc đẩy du lịch.
Với những định hướng chính sách cụ thể, hiện
nay du lịch đồng bằng Sông Cửu Long đã cải
thiện được tình trạng phát triển du lịch của vùng,
tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc
phục từ việc phát triển sản phẩm du lịch, phát
triển thị trường, không gian du lịch, nhân lực
đến việc đầu tư, huy động vốn.. .Để du lịch đồng
bằng sông Cửu Long phát triển tương xứng với
tiềm năng, lợi thế vốn có và theo đúng định
hướng cần phải hoàn thiện quản lý nhà nước về
các mặt từ bộ máy đến chính sách đề ra. Mỗi
giải pháp phải sát với thực tế, giải quyết yếu
kém còn tồn tại từ đó phát huy được tác dụng
của bộ máy quản lý nhà nước. Nhận thức được
vai trò của quản lý nhà nước sẽ mang lại hiệu
quả hoạt động, tạo tiền đề và động lực cho sự
phát triển du lịch đồng bằng sông Cửu Long,
phát huy được tiềm năng của các doanh nghiệp,
gắn kết được người dân với việc làm du lịch. Từ
đó đưa du lịch đồng bằng sông Cửu Long phát
triển đúng hướng và vững mạnh hơn nữa hiện
tại cũng như trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Quyết định số 803/QĐ – BVHTTDL về việc
phê duyệt “đề án phát triển du lịch Đồng
Bằng Sông Cửu Long đến năm 2020”.
2. Viện nghiên cứu phát triển du lịch, Báo cáo
tổng hợp “Chiến lược phát triển du lịch Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Nhà
Xuất bản Lao động, Hà Nội”.
3. Viện chiến lược phát triển, Bộ kế hoạch Đầu tư,
Các vùng, tỉnh, thành trực thuộc Trung ương:
Tiềm năng và triển vọng đến năm 2020, Nhà
Xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2009.
4. World Economy Forum, The Travel & Tour-
ism Competitiveness Report 2013 – Reduc-
ing Barriers to Economic Growth and Job
Creation.
5. World Travel & Tourism Council “Travel &
Tourism, Economic Impact 2013, Viet Nam”.
Một số giải pháp về quản lý nhà nước ...