Nhóm nghiên cứu là tế bào của các hoạt động nghiên cứu và đào
tạo trong mỗi trường đại học, là mô hình để thông qua đó gắn kết
nghiên cứu khoa học với đào tạo, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu
khoa học có hiệu quả nhằm giúp các giảng viên có cơ hội rèn
luyện, tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm, phát huy khả năng sáng tạo
để phát hiện và giải quyết những vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn
của mình nhằm phục vụ tốt hơn cho việc nâng cao chất lượng giảng
dạy và đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Bài báo tập trung
xem xét vai trò, thực trạng của hoạt động nghiên cứu khoa học và
nhóm nghiên cứu và các nguyên nhân của nó. Cũng từ đó, tác giả
đề xuất một số giải pháp xây dựng nhóm nghiên cứu nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 09/06/2022 | Lượt xem: 485 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp xây dựng nhóm nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học của giảng viên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 232
Một số giải pháp xây dựng nhóm nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả
nghiên cứu khoa học của giảng viên
Nguyễn Thị Diện
Bộ môn Lý luận chính trị, Trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh
* Email: nguyendienllct@gmail.com
Mobile: 0977.520.419
Tóm tắt
Từ khóa:
Giảng viên, nhóm nghiên cứu,
nghiên cứu khoa học, vai trò nhóm
nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu là tế bào của các hoạt động nghiên cứu và đào
tạo trong mỗi trường đại học, là mô hình để thông qua đó gắn kết
nghiên cứu khoa học với đào tạo, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu
khoa học có hiệu quả nhằm giúp các giảng viên có cơ hội rèn
luyện, tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm, phát huy khả năng sáng tạo
để phát hiện và giải quyết những vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn
của mình nhằm phục vụ tốt hơn cho việc nâng cao chất lượng giảng
dạy và đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Bài báo tập trung
xem xét vai trò, thực trạng của hoạt động nghiên cứu khoa học và
nhóm nghiên cứu và các nguyên nhân của nó. Cũng từ đó, tác giả
đề xuất một số giải pháp xây dựng nhóm nghiên cứu nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhóm nghiên cứu là tế bào của các hoạt
động nghiên cứu và đào tạo trong mỗi trường đại
học, là mô hình để thông qua đó gắn kết nghiên
cứu khoa học với đào tạo. Nhận thức được tầm
quan trọng của các nhóm nghiên cứu, hiện nay
các cơ quan quản lý cấp Bộ, ngành, cũng như
một số trường đại học đã quan tâm và có những
chính sách đầu tư mũi nhọn cho lĩnh vực này. Vì
chỉ có xây dựng được các nhóm nghiên cứu mới
triển khai được các hoạt động nghiên cứu mạnh,
đủ sức giải quyết những vấn đề khoa học đỉnh
cao của ngành và những nhiệm vụ khoa học công
nghệ quan trọng của đất nước.
Sự quan tâm, đầu tư xây dựng và phát
triển các nhóm nghiên cứu ở khắp các trường đại
học của Việt Nam trong thời gian gần đây phản
ánh nhận thức chung rằng, các nhóm nghiên cứu
trong trường đại học ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo,
nghiên cứu, phục vụ xã hội và việc hình thành
các nhóm nghiên cứu ở các trường đại học như
một sự tự thân vận động, có tính tất yếu vì sự
phát triển của nhà trường, là một vấn đề cấp thiết
và thực tiễn.
Hơn nữa, một trong những vai trò quan
trọng của trường đại học là chuyển giao tri thức,
đưa những kết quả nghiên cứu mới về khoa học
và công nghệ của nhà trường phục vụ thiết thực
sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Nhóm nghiên cứu có vai trò cực kỳ
quan trọng trong việc triển khai từ nghiên cứu
đến chế thử, thúc đẩy sự ra đời của các phát
minh, sáng chế và sản phẩm mới trong trường
đại học.
Xuất phát từ thực tế này, giải pháp mà
các trường đại học lựa chọn là xây dựng các
nhóm nghiên cứu khoa học nhằm quy tụ các nhà
khoa có trình độ cao, lấy hợp tác là phương thức
hoạt động chủ yếu để nâng cao hiệu quả cả trong
đào tạo và nghiên cứu khoa học. Chính nhóm
nghiên cứu là môi trường khoa học thuận lợi nhất
để các nhà khoa học trao đổi học thuật, tập hợp
lực lượng và cùng nhau tiếp cận, giải quyết các
vấn đề mới của khoa học, thông qua các hoạt
động của nhóm như hội thảo khoa học, hướng
dẫn nghiên cứu sinh... để tập trung trí tuệ và sức
lực giải quyết một vấn đề có tính liên ngành,
đồng thời tạo ra các sản phẩm nghiên cứu có thể
chuyển giao và ứng dựng vào thực tiễn, đóng góp
vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đội ngũ giảng viên có vai trò quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của các trường đại
học. Bên cạnh công việc giảng dạy có chất lượng
thì tham gia nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ có
tính bắt buộc đối với cán bộ giảng dạy ở trường
đại học, giúp họ có cơ hội rèn luyện, tích luỹ kiến
thức, kinh nghiệm, phát huy khả năng sáng tạo,
nâng cao chất lượng giảng dạy và đóng góp cho
sự phát triển của xã hội.
Mặc dù giảng dạy và nghiên cứu khoa học
là hai nhiệm vụ có quan hệ mật thiết với nhau, tuy
nhiên, cách đánh giá chất lượng giảng viên hiện nay
ở các trường vẫn chưa chú trọng nhiều đến hoạt
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 233
động nghiên cứu khoa học. Các đề tài nghiên cứu
khoa học thường thiên về lí thuyết, ít gắn với thực
nghiệm, không tiếp cận với thực tiễn xã hội, những
chủ nhiệm đề tài này thực hiện nghiên cứu một
cách độc lập, không theo nhóm. Nhóm nghiên cứu,
trong thực tế đã hình thành một cách hoàn toàn tự
phát hoặc hoạt động chưa có hiệu quả. Vì vậy, một
trong những giải pháp để nâng cao chất lượng đào
tạo và hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu, cũng
như nâng cao xếp hạng của trường đại học là phải
xây dựng và phát triển được các nhóm nghiên cứu,
đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ
và năng lực nghiên cứu khoa học tốt, có tâm huyết
và kinh nghiệm trong nghiên cứu và đào tạo.
Muốn bắt kịp với xu thế đào tạo của các
trường đại học uy tín trên thế giới trong bối cảnh
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh
mẽ, các trường Đại học phải đẩy mạnh hoạt động
nghiên cứu khoa học. Bởi vì thực tế phần lớn các
trường chưa có nhóm nghiên cứu khoa học chính
thức và hoạt động có hiệu quả. Điều đó đặt ra mục
tiêu phải tìm hiểu, phát hiện và hóa giải những bất
cập để những chính sách hỗ trợ nhóm nghiên cứu đi
nhanh và hiệu quả vào thực tiễn, nhân rộng trong
các trường đại học. Từ đó, trực tiếp góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo, cũng như nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ, đẩy
nhanh số lượng và nâng cao chất lượng các công bố
quốc tế, qua đó nâng cao thứ hạng các trường đại
học Việt Nam trong các bảng xếp hạng đại học của
khu vực và thế giới.
2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÓM
NGHIÊN CỨU NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA
GIẢNG
2.1. Các khái niệm
Nghiên cứu khoa học: là quá trình
hình thành và chứng minh luận điểm khoa
học về một sự vật hoặc hiện tượng cần khám phá.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm
hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên,
xã hội và tư duy, sáng tạo các giải pháp nhằm
ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu khoa học
bao gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng
dụng. Theo Kerlinger (1986), “nghiên cứu khoa
học là sự quan sát có hệ thống, được kiểm
nghiệm thực tế và được phê bình chỉnh sửa dựa
trên những hiện tượng giả định”.
Hoạt động nghiên cứu khoa học: bao
gồm các công trình nghiên cứu cấp Nhà nước,
cấp Bộ, cấp trường; các chương trình, dự án
nghiên cứu khoa học trong nước và hợp tác
quốc tế; các hội thảo khoa học quốc tế, hội thảo
khoa học dành cho giảng viên, học viên sau đại
học và sinh viên; xuất bản sách, tạp chí, tập san
khoa học.
Giảng viên: Nhà giáo là người làm nhiệm
vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở
giáo dục khác. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo
dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề
nghiệp gọi là giáo viên, ở cơ sở giáo dục đại học
gọi là giảng viên.
Nhóm nghiên cứu là tập hợp những
người có năng lực nghiên cứu bổ trợ cho nhau
(kiến thức, kỹ năng và khả năng), cùng cam kết
chịu trách nhiệm thực hiện các mục tiêu chung.
Các thành viên trong nhóm tương tác với
nhau và với trưởng nhóm để đạt được mục tiêu
chung. Mỗi thành viên trong nhóm chia sẻ thông
tin và thực hiện phần việc của mình dựa vào
thông tin của các thành viên còn lại. Họ kết hợp
với nhau để hoàn thành nhiệm vụ và phụ thuộc
vào trưởng nhóm để được cung cấp thông tin và
nguồn lực, được huấn luyện khi cần thiết cũng
như khi cần phối hợp hay liên kết với những
nhóm nghiên cứu khác. Nhìn chung, có thể hiểu
nhóm nghiên cứu khoa học là tập thể các nhà
khoa học và học thuật: - Định hướng cùng một
mục đích, một lĩnh vực chuyên môn nhất định. -
Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo tại
một đơn vị hạt nhân (hay xoay quanh đơn vị hạt
nhân). - Được dẫn dắt bởi một (hay một vài) nhà
nghiên cứu có uy tín khoa học, uy tín đạo đức và
đồng thời phải có khả năng tổ chức, giao tiếp, tập
hợp[3]
Nhân lực khoa học công nghệ: Theo định
nghĩa của UNESCO: nhân lực khoa học và công
nghệ là những người trực tiếp tham gia vào hoạt
động khoa học và công nghệ trong một cơ quan, tổ
chức và được trả lương hay thù lao cho lao động
của họ, bao gồm các nhà khoa học và kỹ sư, kỹ
thuật viên và nhân lực phù trợ. Như vậy nhân lực
nghiên cứu khoa học cũng nằm trong nhóm này.
Hoạt động khoa học và công nghệ là một
trong các nhiệm vụ của trường đại học. Trường
đại học vừa là cơ sở đào tạo, vừa là cơ sở nghiên
cứu khoa học, phát triển công nghệ, ứng dụng và
chuyển giao công nghệ vào sản xuất và đời sống.
Trường đại học thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu
cơ bản, nhiệm vụ khoa học công nghệ ưu tiên,
trọng điểm của Nhà nước và nghiên cứu khoa học
về giáo dục. Hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên đóng góp vào việc nâng cao chất
lượng giảng dạy. Hoạt động nghiên cứu khoa học
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực nghiên cứu
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 234
khoa học. Nâng cao trình độ và năng lực của
giảng viên, cán bộ hoạt động khoa học và công
nghệ trong trường đại học. Góp phần phát hiện và
bồi dưỡng nhân tài, phát triển tiềm lực khoa học
và công nghệ của đất nước, thúc đẩy hội nhập với
nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại của
khu vực và thế giới.
2.2. Thực trạng xây dựng nhóm nghiên cứu
nhằm nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học
của giảng viên
Hoạt động nghiên cứu khoa học của đội
ngũ giảng viên tại trường đại học Việt Nam hiện
nay đã có những đóng góp đáng kể vào thành tích
chung của nhà trường như: Hệ thống giáo trình,
đề cương bài giảng, tài liệu tham khảo khá đầy
đủ và có chất lượng tốt phục vụ công tác giáo
dục, đào tạo, ngay trong một giáo trình môn học
hay một bài giảng cũng là kết tinh của quá trình
nghiên cứu khoa học. Không chỉ phục vụ công
tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học trong nhà
trường còn đáp ứng nhu cầu mà xã hội và nền
kinh tế đòi hỏi như chế tạo các sản phẩm có chất
lượng, chế tạo máy móc công cụ để phục vụ
sản xuất.
Trong thời gian qua, hoạt động nghiên cứu
khoa học ở nhiều trường đại học thuộc các lĩnh vực
khác nhau, bao gồm cả trường công lẫn trường tư
còn yếu cả về chất lượng và số lượng, hoạt động
chính chủ yếu là giảng dạy. Hiện nay, cả nước có
khoảng 700 trường đại học, học viện, cao đẳng với
tổng số giảng viên là 74.991 người. Số lượng giảng
viên và chức danh khoa học năm học 2018-2019 so
với 2017-2018 được tăng lên đáng kể, nhưng số
trường có bài báo được công nhận quốc tế (có bài
báo ISI/SCOPUS) thì lại rất khiêm tốn, nhóm
nghiên cứu trong các lĩnh vực cũng không đồng đều
và có sự chênh lệch khá lớn.
Đánh giá về hoạt động nghiên cứu khoa
học, tác giả bài viết “Các trường đại học nghiên
cứu khoa học chưa xứng tầm” (báo Sài Gòn giải
phóng online) cho rằng năng suất NCKH của các
trường hiện nay khá khiêm tốn. Theo thống kê,
khối các trường kỹ thuật công nghệ, luôn có tỷ lệ
công bố quốc tế cao nhất. Trong giai đoạn 2011 -
2016, khối trường này (16 trường) công bố 1.733
bài báo quốc tế (trong khi cả nước có 5.738 bài),
chiếm 30% toàn ngành. Tuy nhiên, so với các
ĐH khác trong khu vực thì con số này vẫn là khá
thấp. Khối các trường nông - lâm - ngư - y đã có
3.349 bài đăng trên các kỷ yếu hội thảo quốc gia
và quốc tế. Nếu so sánh với nguồn nhân lực hiện
có thì số lượng đề tài NCKH của khối trường này
rất khiếm tốn, bình quân chỉ đạt 0,74 bài/cán bộ
khoa học trong 5 năm (2011 -2016).[5]
Khối các trường ĐH sư phạm (21 trường
thuộc Bộ GD&ĐT) có 2.000/9.000 giảng viên là
TS nhưng số lượng bài báo quốc tế có uy tín như
ISI/SCOPUS chỉ có 804 bài (trong giai đoạn
2011 - 2015), thậm chí, Viện Khoa học Giáo dục
không có được một bài báo quốc tế nào. Đối với
các trường ĐH khối khoa học xã hội và nhân văn,
công bố quốc tế cũng không khá hơn. Trung bình
mỗi năm, một nhà khoa học đạt gần 0,5 bài. Duy
nhất chỉ có Trường ĐH Kinh tế (ĐH Quốc gia Hà
Nội) đạt 1,45 bài/TS/năm.
Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, “tính
đến năm học 2016 - 2017 đã có 491 nhóm giảng
dạy - nghiên cứu được thành lập tại các cơ sở đào
tạo, trong đó cơ sở đào tạo có nhiều nhóm giảng
dạy - nghiên cứu nhất là: Trường ĐH Bách khoa
Hà Nội (127 nhóm), tiếp đến là các trường: ĐH
Tây Nguyên (42 nhóm), ĐH Đà Nẵng (36 nhóm),
ĐH SP Kỹ thuật Hưng Yên (30 nhóm), ĐHQG
TPHCM (24 nhóm), ĐHQG Hà Nội (27 NNC
mạnh). Trên cơ sở khảo sát từ 142/271 trường đại
học, hiện nay trong hệ thống các trường đại học
đã hình thành 945 nhóm nghiên cứu, một trường
đại học có trung bình 7 nhóm nghiên cứu, độ tuổi
đông nhất của các thành viên trong NNC là ở lứa
tuổi từ 35-45 là 59,2%.”[6]
Chính khoảng trống về chính sách và giải
pháp đã góp phần dẫn đến những hạn chế của các
nhóm nghiên cứu trong trường đại học hiện nay
như: số nhóm nghiên cứu còn thấp - tính đến năm
học 2016 - 2017, mới có 142/271 trường hình
thành được 945 nhóm nghiên cứu, trong đó riêng
đại học Bách khoa Hà Nội có 129 nhóm nghiên
cứu (theo báo cáo của Bộ GD&ĐT). Số công bố
quốc tế của các nhóm nghiên cứu cũng khá
khiêm tốn: Có 37,5% số giảng viên được hỏi
chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus; số giảng
viên có công bố quốc tế ISI/Scopus trên 5 bài chỉ
chiếm 34,2%.
Tuy nhiên, việc xây dựng các nhóm
nghiên cứu các trường đại học đã tạo được sự
chuyển biến đột phá về chất lượng. Đến nay,
80% các nghiên cứu sinh trong lĩnh vực khoa học
tự nhiên - công nghệ của ĐHQGHN, cũng như
nhiều nghiên cứu sinh của trường ĐH Bách Khoa
Hà Nội, ĐH Y Hà Nội, ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH
Duy Tân và nhiều trường đại học khác, nhờ
trưởng thành trong các nhóm nghiên cứu nên khi
bảo vệ luận án tiến sỹ đều đã có công bố quốc tế
ISI. Ví dụ, năm 2013, tổng công bố quốc tế của
cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, ở mức 2309 bài,
thì theo thống kê mới đây nhất của nhóm nghiên
cứu độc lập của trường ĐH Duy Tân, tính từ
2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018,
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 235
chỉ riêng các công bố quốc tế của 30 trường đại
học Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã
đạt 10.515 bài, và hơn cả giai đoạn 5 năm trước
2011-2015, khi đó toàn Việt Nam, trong 5 năm
mới có 10.034 bài. Có thể nhận thấy sự gia tăng
các công bố quốc tế tỷ lệ thuận với sự gia tăng
các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học
của Việt Nam.[7]
Tóm lại, các nhóm nghiên cứu hiện nay ở
Việt Nam còn những tồn tại, hạn chế chủ yếu sau:
Thứ nhất, số lượng các công bố quốc tế
của các nhóm nghiên cứu còn khá khiêm tốn.
Thứ hai, còn thiếu cán bộ khoa học đầu
ngành dẫn dắt nhóm nghiên cứu. Đồng thời, chất
lượng các thành viên tham gia nhóm nghiên cứu
trong việc duy trì và phát triển nhóm nghiên cứu
chưa đồng bộ và hiệu quả.
Thứ ba, nguồn lực đầu tư cho các nhóm
nghiên cứu còn hạn chế. Kinh phí cho các đề tài
rất khiêm tốn và thường bị cấp chậm. Kinh phí
cần được hỗ trợ bên cạnh để chi trực tiếp cho
hoạt động chuyên môn, còn cần để thu hút nhân
tài, thu hút các tiến sỹ trẻ có năng lực, thu hút các
nghiên cứu sinh và các sinh viên tài năng. Kinh
phí đầu tư tài chính cho hoạt động khoa học công
nghệ trong cả nước bình quân (giai đoạn 2011-
2015) vào khoảng 1,7% ngân sách Nhà nước
tương đương 0,4% GDP, thấp so với các nước
trong khu vực: Thái Lan là 0,48%; Malaysia
1,26% và Singapore là 2.2% GDP (theo tính toán
của World Bank năm 2016).
Thứ tư, cơ sở vật chất, thiết bị đầu tư cho
nghiên cứu không có, hoặc rất thiếu, hoặc không
đồng bộ.
Thứ năm, chưa có những cơ chế chính
sách mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình thành
và phát triển các nhóm nghiên cứu trong các
trường đại học. Nếu có sự hỗ trợ cũng là mức
kinh phí rất nhỏ.
Vì vậy, để có thể tạo nên một môi trường
nghiên cứu khoa học tốt cho các giảng viên tại các
trường đại học thì các trường đại học cần đảm bảo
các điều kiện sau: Có một môi trường làm việc
thuận lợi cho công tác giảng dạy và nghiên cứu
khoa học; Sự trợ giúp tạo ra tiềm lực về thời gian và
điều kiện vật chất cho nghiên cứu; Kiến thức về
quản lý kinh tế và kinh nghiệm hoàn thành hồ sơ,
sản phẩm đề tài nghiên cứu khoa học và chuyển
giao công nghệ. Bản thân các giảng viên cũng phải
tạo ra và nuôi dưỡng lòng say mê nghiên cứu khoa
học theo định hướng hợp lý; Liên tục bám sát thực
tế sản xuất, tìm ra hướng đề tài sát thực tế, hữu ích;
Tổ chức tốt quá trình thực hiện đề tài (với các đồng
nghiệp cùng hướng nghiên cứu); chắt lọc kết quả từ
các đề tài nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ, hệ thống hóa, bổ sung vào bài giảng
2.3. Nguyên nhân
Nghiên cứu khoa học tại các trường đại
học trên cả nước đang gặp nhiều khó khăn, xuất
phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do thiếu môi trường nghiên
cứu khoa học, thiếu kết nối giữa môi trường
nghiên cứu với các doanh nghiệp, cơ chế thu hút,
ưu đãi giảng viên tham gia vào nghiên cứu khoa
học chưa thực sự hiệu quả, thiếu sự liên kết giữa
nhà trường với doanh nghiệp để tạo đầu ra cho
nghiên cứu. Ðiều này làm cho các công trình
khoa học của các trường đại học khó được
thương mại hóa, mất đi một nguồn đầu tư lớn cho
nghiên cứu khoa học từ các doanh nghiệp. Mặt
khác, đội ngũ giảng viên chưa nhận thức được
tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học, do vậy,
hầu hết giảng viên đều chưa thực sự chủ động
đưa ra các đề tài nghiên cứu. Nhiều đề tài được
nghiên cứu dựa trên các mô hình đã được nghiên
cứu từ trước, hoặc chưa xuất phát từ nhu cầu thực
tế của chính bản thân giảng viên, hoặc nhu cầu
của môn học, ngành học.
Thứ hai, chất lượng đề tài chưa tương
xứng với kinh phí, cơ chế giám sát và đánh giá
năng lực nghiên cứu của chủ nhiệm đề tài còn
yếu, phân bổ kinh phí dựa trên số lượng người
nghiên cứu có học hàm, học vị Ngoài ra, công
tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng
viên nói chung còn có sức ỳ quá lớn, nguyên
nhân là do lịch giảng dạy phân bố, phân công
không đồng đều đối với giảng viên, khiến cho họ
không có đủ thời gian đầu tư nghiên cứu. Công
tác nghiên cứu khoa học thiếu tính hệ thống, tập
trung, đồng bộ, giảng viên nghiên cứu đề tài còn
mang tính đơn lẻ, manh mún, nghiên cứu khoa
học chưa thực sự thu hút đông đảo giảng viên
tham gia. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, hiện có 74.991 cán bộ giảng dạy ở các
trường đại học, cao đẳng nhưng chỉ có khoảng
1.100 giảng viên (3%) tham gia nghiên cứu khoa
học và rất ít giảng viên trẻ tham gia nghiên cứu.
Nguyên nhân chính của những hạn chế tồn tại
nêu trên trước hết xuất phát từ chủ quan các cán
bộ giảng viên còn chưa ý thức được đầy đủ việc
gắn kết công tác đào tạo với nghiên cứu, và chưa
ý thức được tầm quan trọng của việc làm việc và
rèn luyện, nâng cao năng lực và trình độ chuyên
môn thông qua nhóm nghiên cứu. Một bộ phận
giảng viên còn hạn chế về kỹ năng và phương
pháp nghiên cứu, dẫn đến chất lượng công trình
chưa cao. Giảng viên cũng chưa có cơ hội kết
nối, tìm kiếm các đề tài, dự án cấp tỉnh, thành và
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH
* HNKHCN Lần VI tháng 05/2020 236
liên kết với nước ngoài, chưa có môi trường tốt
để tham gia nghiên cứu khoa học.
Thứ ba, về kinh phí. Đây là vấn đề then
chốt nhất và vướng mắc nhất của nghiên cứu
khoa học trong trường đại học. Hàng năm, nhà
nước đầu tư cho nghiên cứu khoa học là 2% =
0,5% GDP. Trong số này, Bộ Khoa học và Công
nghệ chỉ nhận được khoảng 8 -10% tổng chi ngân
sách. Số kinh phí này còn ít nhưng cũng hơn
nhiều nước khác như: Indonesia, Philippine.
Tuy nhiên, số kinh phí này lại phân chia chưa
hợp lý, dàn trải giữa trung ương và địa phương,
giữa cơ quan này với cơ quan khác. Vì thế,
kinh phí thực sự cho nghiên cứu khoa học tại
trường đại học rất hạn chế, đôi khi giáo viên chỉ
coi nghiên cứu khoa học