VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 
136 
Email: 
[email protected]
MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÍ TRONG HỌC TẬP NGHỀ NGHIỆP 
CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC 
Bùi Đức Minh - Ban Tổ Chức tỉnh uỷ Sơn La 
Ngày nhận bài: 26/05/2018; ngày sửa chữa: 15/06/2018; ngày duyệt đăng: 18/06/2018. 
Abstract: The paper mentions some domestic and international studies on psychological 
difficulties in apprenticeship of students at colleges and universities. These studies have been 
considered from many different perspectives, subjects and fields in order to determine the 
manifestation and causes of psychological difficulties in apprenticeship of students as well as the 
effect of these difficulties on the learning effectiveness of students. Also, the article proposes some 
measures to minimize these psychological difficulties in apprenticeship of students. 
Keywords: Difficulties, psychological difficulties, apprenticeship, students. 
1. Mở đầu 
Hoạt động học tập ở trường cao đẳng (CĐ), đại học 
(ĐH) là hoạt động học tập nghề nghiệp; nội dung học tập 
là hệ thống tri thức, kĩ năng liên quan đến các khoa học 
cơ bản, khoa học cơ sở của chuyên ngành và chuyên 
ngành gắn với nghề nghiệp tương lai của người học. Việc 
nắm vững nội dung học tập là điều kiện quan trọng giúp 
sinh viên (SV) trở thành những “chuyên gia” trong một 
lĩnh vực nghề nghiệp. Đào tạo nghề nghiệp là hoạt động 
dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng và thái độ 
nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được 
việc làm hay tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học 
hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp (Điều 3, khoản 2, 
Luật Giáo dục nghề nghiệp, 2014) [1]. 
Vì vậy, bước vào môi trường CĐ, ĐH là bước ngoặt 
quan trọng đối với SV, là cơ hội để SV tích lũy tri thức 
và kĩ năng nghề nghiệp, tạo điều kiện cho họ có được 
một nghề nghiệp ổn định sau này, từ đó có được một cuộc 
sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, đó cũng là một quá trình 
học tập mà SV phải đối mặt với nhiều khó khăn tâm lí 
(KKTL); và bên cạnh những cố gắng nỗ lực của bản thân, 
SV cần nhận được những biện pháp hỗ trợ phù hợp để có 
thể vượt qua những khó khăn đó. Vấn đề KKTL trong 
học tập của SV đã được nhiều công trình nghiên cứu ở 
nước ngoài và Việt Nam đề cập đến dưới nhiều góc độ 
khác nhau. Bài viết đề cập một số nghiên cứu về KKTL 
trong học nghề của SV các trường CĐ, ĐH. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng là 
nghiên cứu tài liệu để phân tích, tổng hợp và khái quát 
các xu hướng nghiên cứu về KKTL trong học nghề của 
SV các trường CĐ, ĐH. 
2.2. Những nghiên cứu ở nước ngoài về khó khăn tâm 
lí trong hoạt động học tập nghề nghiệp của sinh viên 
các trường cao đẳng, đại học 
Vấn đề KKTL trong học nghề của SV các trường CĐ, 
ĐH đã được các tác giả nước ngoài xem xét dưới các góc 
độ khác nhau, với nhiều khách thể và lĩnh vực khác nhau 
nhằm xác định biểu hiện, nguyên nhân gây ra những 
KKTL trong học nghề, ảnh hưởng của những KKTL đó 
đến hiệu quả học tập của SV và một số biện pháp hỗ trợ 
nhằm giảm thiểu những KKTL này ở SV. 
2.2.1. Những nghiên cứu về các biểu hiện khó khăn tâm lí 
trong học nghề của sinh viên các trường cao đẳng, đại học 
Có thể khái quát thành 4 biểu hiện cụ thể: 
- Thứ nhất, là những xúc cảm tiêu cực nảy sinh trong 
quá trình học tập tại các trường CĐ và ĐH: bao gồm 
chán nản, lo lắng, căng thẳng, thất vọng, buồn phiền, mệt 
mỏi, cô độc Khi nghiên cứu một nhóm 351 SV ở Anh, 
Andrew và Wilding (2004) đã phát hiện ra 40% SV có 
vấn đề tâm lí được đặc trưng bởi sự lo lắng và căng thẳng 
[2], kết quả nghiên cứu của Sarason I.G. và Sarason B.R 
(2002) cũng cho thấy, nhiều SV khi vào đại học vì không 
thể học tốt nên dẫn đến căng thẳng, từ đó họ liên tục cảm 
thấy thất vọng và tuyệt vọng. Họ nhận thấy những điều 
tiêu cực và tự coi mình là người thất bại [3]. Tác giả 
Palmer và Puri (2006) đã chỉ ra nhiều nhóm khó khăn mà 
SV thường gặp phải khi học ở trường ĐH và khó khăn 
trong học tập là một khó khăn lớn. Đối với khó khăn 
trong học tập, SV có các biểu hiện như lo lắng ngành học 
không phù hợp với mong ước của bản thân, các em 
không biết nên tiếp tục học hay chuyển nghề, chuyển 
trường [4]. 
- Thứ hai, là vấn đề thích nghi với môi trường học tập 
trong trường CĐ, ĐH. Vấn đề tâm lí này thường xảy ra 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 
137 
ở đối tượng SV năm thứ nhất. Theo Sade và Coll (2003), 
SV khi mới bước vào trường ĐH, ngay từ học kì đầu tiên 
đã phải dành thời gian điều chỉnh để phù hợp với môi 
trường học tập mới. Đây được coi là vấn đề chính trong 
bối cảnh giáo dục đặc thù bởi nhiều SV đến trường ĐH 
từ những môi trường khác nhau và họ phải sống trong 
môi trường ĐH với nền văn hóa dễ gây sốc. Vì vậy, nền 
tảng và sự chuẩn bị của SV đóng vai trò quan trọng đáng 
kể [5]. Tổng kết của Palmer và Puri (2006), các nhóm 
khó khăn lớn mà SV thường gặp phải khi học ở trường 
ĐH, đó là: 1) Khó khăn khi rời mái ấm gia đình và bắt 
đầu cuộc sống ở trường ĐH, xa gia đình, người thân và 
bạn bè; 2) Khó khăn khi sống ở môi trường mới, cùng 
với những người khác; 3) Khó khăn trong việc đảm bảo 
ăn uống có lợi cho sức khỏe với điều kiện kinh phí hạn 
hẹp; 4) Khó khăn liên quan đến học tập và sự mong chờ 
của cá nhân đối với khóa học; 5) Khó khăn liên quan đến 
quan hệ xã hội; 6) Khó khăn về kinh tế [4]. 
- Thứ ba, là những biểu hiện tâm lí nghiêm trọng và 
một số biểu hiện có liên quan đến rối nhiễu và rối loạn 
tâm lí, biểu hiện thường gặp là tự gây tổn thương cho cơ 
thể, rối loạn ăn uống, sử dụng các chất kích thích, tấn 
công tình dục ở trường học, lạm dụng tình dục sớm, tự 
tử Theo kết quả nghiên cứu tại 274 trung tâm tham vấn 
(Gallagher, Sysko và Zhang, 2001) [6], có 85% trung 
tâm báo cáo rằng, có sự gia tăng các vấn đề tâm lí nghiêm 
trọng ở đối tượng SV trong hơn 5 năm qua, bao gồm thất 
bại trong học tập (71%), tự sát, tự gây tổn thương cho cơ 
thể (51%), rối loạn ăn uống (38%), các vấn đề về chất 
cồn (45%), sử dụng các chất kích thích khác (49%), tấn 
công tình dục ở trường học (33%) và các vấn đề liên quan 
tới sự lạm dụng tình dục sớm (34%). Theo đánh giá, có 
khoảng 16% số SV gặp các vấn đề tâm lí nghiêm trọng 
(Gallagher, Gill và Sysko, 2000) [7]. Theo một báo cáo 
khảo sát quốc gia của Mĩ, 28% SV ĐH năm thứ nhất 
thường xuyên cảm thấy bị áp lực và 8% cảm thấy bị suy 
nhược (HERI, UCLA, 2000) [8]. 
- Thứ tư, là những khó khăn trong việc tự nhận thức, 
nhận thức và thái độ đối với học tập. 
Nghiên cứu về các khó khăn trong quá trình học tập của 
SV ở độ tuổi trên 25 chưa tốt nghiệp ĐH, ngoài hai khó khăn 
về tổ chức và khó khăn về hoàn cảnh, Cross (1978, 1986) 
còn phát hiện thấy một khó khăn chính nữa ở những SV này 
là KKTL xuất phát từ thái độ, sự tự nhận thức về chính mình 
trong học tập [9], [10]. Darkenwald và Merriam (1982) 
đánh giá rằng, các vấn đề KKTL có xu hướng liên quan chặt 
chẽ tới hoạt động giáo dục và học tập của người học, đặc 
biệt là tiềm năng của người học [11]. Merriam (1984) nhấn 
mạnh, KKTL được coi là rào cản mạnh hơn các khó khăn 
về tổ chức hay hoàn cảnh vì KKTL phản ánh những trải 
nghiệm tiêu cực đối với môi trường học tập [12]. 
Như vậy, nhiều tác giả nước ngoài đã quan tâm nghiên 
cứu những biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập của 
SV. Các nhà nghiên cứu này đã chỉ ra nhiều biểu hiện 
KKTL khác nhau nảy sinh ở SV trong quá trình học tập ở 
CĐ cũng như ĐH. Tuy nhiên các biểu hiện mới chỉ được 
tập trung xem xét ở cấp độ xúc cảm (lo lắng, căng thẳng, 
mệt mỏi,), các biểu hiện ở cấp độ nhận thức và hành vi 
trong đời sống tâm lí của SV còn ít được nghiên cứu. 
2.2.2. Những nghiên cứu về nguyên nhân gây ra khó 
khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các trường cao 
đẳng, đại học 
Khi nghiên cứu về KKTL trong học tập của SV các 
trường CĐ, ĐH, các tác giả nước ngoài đã chỉ ra nhiều 
nguyên nhân dẫn đến KKTL trong hoạt động học tập của 
SV. Có các nguyên nhân khách quan từ bên ngoài và cả 
những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ chính các em. 
Trước hết là yếu tố văn hóa-xã hội như hoàn cảnh gia 
đình, cha mẹ thiếu kĩ năng, khả năng thích nghi kém, bạo 
lực, sử dụng chất kích thích, cồn và quan hệ tình dục sớm, 
các mối liên kết cá nhân lỏng lẻo có thể dẫn đến tình 
trạng gia tăng các vấn đề tâm lí (Gallagher, Gill và Sysko, 
2000) [7]. 
Tiếp đến là kết quả học tập cũng là một trong những 
nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về mức độ KKTL 
trong học tập của SV. Nghiên cứu sự khác nhau về các 
vấn đề tâm lí của 120 SV trường ĐH Quốc tế Hồi giáo 
có học lực giỏi và yếu, Safree, Yasin, Dzulkifli nhận định 
rằng, thành tích học tập kém là một trong những nguyên 
nhân gây ra các vấn đề tâm lí ở SV. Kết quả nghiên cứu 
cho thấy, những SV có học lực kém thường có mức độ 
lo âu, căng thẳng cao hơn những SV có học lực giỏi [13]. 
Ngoài ra, là vấn đề thiếu hụt các kĩ năng. Nghiên cứu 
sự thiếu hụt kĩ năng xã hội - một yếu tố làm gia tăng các 
vấn đề tâm lí trên 118 SV ở Mĩ đã cho phép các tác giả 
Segrin, Chris và Flora, Jeanne (2000) đưa ra nhận định 
rằng, sự thiếu hụt các kĩ năng xã hội chính là một trong 
những nguyên nhân dẫn đến những KKTL ở SV. Những 
SV có kĩ năng xã hội thấp có KKTL cao hơn các SV có 
kĩ năng xã hội tốt [14]. 
Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy rằng, các tác 
giả nước ngoài đã chỉ ra khá nhiều nguyên nhân khác 
nhau dẫn đến KKTL trong học tập của SV, trong đó tập 
trung chủ yếu vào các nguyên nhân chủ yếu như chuyển 
cấp học, môi trường học tập thay đổi, sự không chuẩn bị 
sẵn sàng về mặt tâm lí, sự chưa trưởng thành về mặt nhân 
cách của SV, động cơ, thái độ học tập, thiếu sự hỗ trợ kịp 
thời của nhà trường, giảng viên Tuy nhiên, KKTL của 
SV trong hoạt động học tập, đặc biệt là của SV dân tộc ít 
người trong học nghề còn bắt nguồn từ niềm tin vào khả 
năng học tập của chính bản thân SV, khả năng sử dụng 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 
138 
ngôn ngữ phổ thông, tính tích cực và chủ động trong học 
nghề, điều kiện và phương tiện thực hành nghề, năng lực 
và phương pháp giảng dạy hướng dẫn thực hành nghề 
của giảng viên, hỗ trợ từ gia đình Những yếu tố này 
còn ít được các tác giả nước ngoài đề cập đến. 
2.2.3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của khó khăn tâm 
lí trong học nghề đến hiệu quả học tập của sinh viên các 
trường cao đẳng, đại học 
KKTL của SV cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực tới 
hiệu quả học tập, tỉ lệ lưu ban và tốt nghiệp của họ. 
Brackney và Karabenick (1995) phát hiện ra rằng, mức 
độ KKTL cao ở SV liên quan chặt chẽ đến hiệu quả học 
tập. SV có mức độ KKTL cao thì cảm giác lo lắng về thi 
cử gia tăng, khả năng tự học, hiệu quả quản lí thời gian 
và sử dụng các nguồn lực trong học tập thấp. Họ cũng 
thiếu kiên trì hơn khi phải đối mặt với khó khăn cũng như 
sử dụng các chiến lược học tập hiệu quả hay tìm kiếm sự 
hỗ trợ về học tập [15]. 
Kết quả nghiên cứu của Goodwin (2006) trên nhóm 
SV dân tộc ít người cho thấy, với nhiều SV, khó khăn 
được nhìn nhận như là thử thách trong cuộc đời, giúp SV 
trưởng thành hơn khi cố gắng vượt qua. Tuy nhiên, với 
không ít SV, khó khăn gặp phải trong thời gian học ĐH 
đã để lại dấu ấn nặng nề trong tâm trí, gây căng thẳng, 
giảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng tiêu cực đến kết 
quả học tập và tương lai nghề nghiệp sau này [16]. 
Như vậy, những áp lực từ hoạt động học tập gây ra 
những KKTL cho SV, ngược lại, những căng thẳng, lo 
lắng, buồn phiền, mệt mỏi (những KKTL) làm cho SV 
cảm thấy suy kiệt, thất vọng và tuyệt vọng, từ đó làm ảnh 
hưởng nghiêm trọng đến hoạt động học tập của SV, làm 
giảm hiệu quả học tập và ảnh hưởng tiêu cực đến tương 
lai nghề nghiệp của các em sau này. Có thể khẳng định 
rằng, các cá nhân có mức độ KKTL cao thường thiếu các 
kĩ năng xử lí thông tin - yếu tố có tính quyết định tới hiệu 
quả học tập và thành công của họ 
2.2.4. Những nghiên cứu về biện pháp hỗ trợ để giảm 
thiểu khó khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các 
trường cao đẳng, đại học 
Trên cơ sở làm rõ những nguyên nhân dẫn đến KKTL 
trong học tập của SV, các tác giả nước ngoài cũng đã đề 
xuất một số biện pháp góp phần giảm thiểu KKTL trong 
học tập của SV. 
Để giảm thiểu các khó khăn, rào cản trong quá trình 
học tập của người học, theo các nhà tâm lí học, sự tham 
vấn tâm lí trong nhà trường đóng vai trò đặc biệt quan 
trọng (Caplan, 1970; Friend và Cook, 1996) [17], [18]. 
Hoạt động tham vấn tập trung vào các khía cạnh tâm lí 
của hành vi con người, quá trình can thiệp và các kết quả. 
Mặc dù sự tham vấn chủ yếu nhằm giải quyết các vấn đề 
cá nhân của người học, song trong nhiều trường hợp, nó 
liên quan tới sự cộng tác của tập thể nhằm cải thiện môi 
trường lớp học, trường học và thúc đẩy sự phát triển tâm 
lí tích cực của tất cả các thành viên. 
Tại các trường ĐH, CĐ, bộ phận tham vấn tâm lí có 
nhiệm vụ hỗ trợ SV nhằm xác định và đạt được các mục 
tiêu cá nhân, học tập và nghề nghiệp thông qua cung cấp 
tư vấn về việc phát triển, ngăn chặn và phòng ngừa. Theo 
truyền thống, có sự nhấn mạnh vào việc tư vấn phát triển 
và phòng ngừa. Tuy nhiên, vai trò và chức năng của bộ 
phận tham vấn thuộc các trường ĐH và CĐ tiếp tục thay 
đổi để đáp ứng với một loạt các yếu tố xã hội, chính trị và 
kinh tế (CAS, 1999) [19]. Theo Archer và Cooper (1998), 
việc cung cấp dịch vụ tham vấn cho SV về sự đa văn hóa 
và giới tính, nhu cầu phát triển và nghề nghiệp, sự thay đổi 
cuộc sống, sự căng thẳng, bạo lực và các vấn đề tâm lí 
nghiêm trọng khác là một trong những thách thức lớn của 
bộ phận tham vấn thuộc các trường ĐH, CĐ [15]. 
Như vậy, trên cơ sở làm rõ những nguyên nhân dẫn 
đến KKTL trong học tập của SV, các tác giả nước ngoài 
nhận thấy rằng, cần phải có các biện pháp can thiệp phù 
hợp và hữu hiệu mới có thể hạn chế được những KKTL 
này ở các em. Theo các nhà tâm lí học nước ngoài, để 
giảm thiểu các KKTL trong quá trình học tập của người 
học, sự tham vấn tâm lí trong nhà trường đóng vai trò đặc 
biệt quan trọng trong việc hỗ trợ SV xác định và đạt được 
các mục tiêu cá nhân, học tập và nghề nghiệp thông qua 
cung cấp dịch vụ tham vấn ngăn chặn và phòng ngừa 
KKTL. 
Tóm lại, dưới góc độ hoạt động học tập, nghiên cứu 
của các tác giả nước ngoài thường đi sâu vào lĩnh vực 
tâm lí của người học cũng như sự thay đổi môi trường 
học tập từ cấp học này sang cấp học khác. Các nghiên 
cứu tập trung vào những biểu hiện KKTL, nguyên nhân 
gây ra KKTL, ảnh hưởng của KKTL đến hiệu quả học 
tập của SV nói chung, SV năm thứ nhất nói riêng và bao 
quát đến nhóm đối tượng SV lớn tuổi và một số nhóm 
SV yếu thế. Đặc biệt, các tác giả nước ngoài đã nhấn 
mạnh tầm quan trọng của hoạt động tham vấn tâm lí 
trong nhà trường và vai trò cần thiết của đội ngũ các nhà 
tâm lí học trong việc hỗ trợ, tham vấn học đường nhằm 
cải thiện môi trường lớp học, trường học, thúc đẩy sự 
phát triển tâm lí tích cực của SV; từ đó giảm thiểu và hạn 
chế KKTL ở các em trong quá trình học tập. 
2.3. Những nghiên cứu ở trong nước về khó khăn tâm 
lí trong hoạt động học tập nghề nghiệp của sinh viên 
các trường cao đẳng, đại học 
Ở Việt Nam, KKTL trong hoạt động học tập nghề 
nghiệp của SV các trường CĐ và ĐH cũng đã được nhiều 
tác giả quan tâm nghiên cứu, tập trung vào ba hướng 
chính sau: 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 
139 
2.3.1. Những nghiên cứu về các biểu hiện khó khăn tâm 
lí trong học nghề của sinh viên trường cao đẳng, đại học 
- Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động học tập của SV 
năm thứ nhất: nhiều tác giả trong nước đã chỉ ra rằng, đa 
số SV năm thứ nhất đều gặp KKTL trong học tập. KKTL 
của SV năm thứ nhất thường biểu hiện trên ba mặt nhận 
thức, thái độ và hành vi trong các khâu của hoạt động học 
tập. Kết quả nghiên cứu của đa số các tác giả theo hướng 
này đều chỉ ra rằng, SV năm thứ nhất gặp khó khăn nhiều 
nhất ở mặt hành vi, còn nhận thức và thái độ/xúc cảm đối 
với hoạt động học tập thì có thể thay đổi vị trí cho nhau. 
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Thức và Đào 
Thị Lan Hương (2007) cho thấy, các biểu hiện KKTL 
trong hoạt động học tập của những SV này thể hiện chủ 
yếu ở ba mặt nhận thức, xúc cảm và kĩ năng học tập [20]. 
Sử dụng phương pháp chính là điều tra viết tác giả Đặng 
Thị Lan (2015) đã chỉ ra những biểu hiện KKTL trong hoạt 
động học ngoại ngữ của SV dân tộc thiểu số năm thứ nhất 
ở Trường ĐH Ngoại ngữ - ĐH Quốc gia Hà Nội. Kết quả 
nghiên cứu thực tiễn cho thấy, thời gian đầu học ngoại ngữ 
ở Trường ĐH Ngoại ngữ, SV dân tộc thiểu số năm thứ nhất 
còn gặp khá nhiều khó khăn trong hoạt động học ngoại ngữ 
cả về nhận thức, thái độ và kĩ năng, trong đó các em gặp khó 
khăn nhiều hơn về mặt kĩ năng [21]. 
Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động nghiên cứu 
khoa học của SV trường ĐH Trà Vinh, Phạm Văn Tuân 
(2013) cũng đã nhận định rằng, SV hiện nay đang gặp 
phải nhiều KKTL khi tham gia hoạt động nghiên cứu 
khoa học, chính những khó khăn này đang cản trở tính 
tích cực nghiên cứu khoa học của SV [22]. 
Bên cạnh những biểu hiện KKTL vừa phân tích ở trên, 
khi nghiên cứu về những biểu hiện KKTL của SV trong 
hoạt động học tập một số ít tác giả trong nước còn đưa ra 
các biểu hiện KKTL khác trong các nghiên cứu cụ thể của 
mình. Chẳng hạn, 1) Các biểu hiện KKTL cụ thể trong các 
khâu của quá trình học tập; 2) Các biểu hiện KKTL trong 
hoạt động học tập và trong các lĩnh vực khác của cuộc 
sống; 3) Các biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập theo 
hệ thống tín chỉ; 4) Các biểu hiện KKTL trong hoạt động 
học tập ở những nhóm SV yếu thế. 
- Hướng nghiên cứu về những biểu hiện KKTL trong 
hoạt động học tập và trong các lĩnh vực khác của cuộc 
sống có tác giả Đỗ Thị Hạnh Phúc và Triệu Thị Hương 
(2007), nghiên cứu trên 315 SV về thực trạng KKTL của 
SV Học viện Cảnh sát Nhân dân sát, cho thấy: hầu hết 
SV đôi khi đều gặp tất cả các KKTL trên tất cả các lĩnh 
vực của cuộc sống. Ngoài những khó khăn mang tính đặc 
trưng của lứa tuổi như “Tình bạn khác giới, tình yêu”; 
“Giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống”, SV Học viện 
Cảnh sát Nhân dân còn có những khó khăn mang tính 
đặc thù liên quan đến những quy định của ngành, của 
trường như điều kiện sinh hoạt, “Quy định của trường, 
của ngành” [23]. 
Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động học tập của 82 
SV hệ cử tuyển Trường ĐH Sư phạm, ĐH Thái Nguyên, 
Nguyễn Thị Út Sáu (2009) đã chỉ ra một số KKTL mà 
SV gặp phải trong học tập theo hệ thống tín chỉ như: 
phương pháp học tập của SV còn thiếu tính chủ động, 
sáng tạo, chưa có kĩ năng tự học, tự nghiên cứu; SV chưa 
có thói quen làm việc qua mạng như đăng kí thông tin 
qua mạng, còn có tâm lí ngại liên hệ trực tiếp với phòng 
đào tạo, với cán bộ phụ trách học tập; trong quá trình học 
tập, SV bị căng thẳng tâm lí, lo sợ vì không được thi lại 
và có nguy cơ bị đào thải khỏi trường [24]. 
- Hướng nghiên cứu về các biểu hiện KKTL trong học 
tập ở những nhóm SV yếu thế có các tác giả Nguyễn Thị 
Hoài (2007), khi chuyển từ bậc phổ thông lên ĐH, CĐ, 
SV gặp không ít khó khăn do phải thay đổi hoạt động học 
tập cho phù hợp với môi trường học tập mới. Đối với 
nhóm đối tượng SV dân tộc thiểu số, điều đó càng khó 
khăn hơn bởi học lực của họ thường thấp, năng lực sử 
dụng ngôn ngữ phổ thông hạn chế, khó hòa nhập với 
phương pháp học tập ở ĐH, có tâm lí mặc cảm tự ti 
Do đó, theo tác giả này, SV dân tộc thiểu số cần trải qua 
quá trình thích ứng, tham gia vào hoạt động học tập ở 
trường ĐH nhằm lĩnh hội được những yêu cầu của các 
hành động học tập mới và trong quá trình đó, SV sẽ chủ 
động tích cực vượt qua những khó khăn, trở ngại tâm lí 
của bản thân để tiếp nhận những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo 
mới, hình thành các hành động học tập phù hợp giúp cho 
hoạt động học tập đạt hiệu quả cao [25]. 
Cũng đồng quan điểm trên, Trần Thị Tú Anh (2010) 
cho rằng, đối với nhóm SV thiệt