Như chúng ta đã biết “một chính sách kinh tế nếu không liên quan đến kết quả cuả chủ thể đặt ra thì chính sách ấy cũng không có tác dụng “.Xuất phát từ nguyên tắc trên, với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Nước ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kttt có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Chúng ta đang chờ đợi sự thành công để đón năm 2020 về cơ bản chúng ta là nước công nghiệp.
Vì thế không ai có thể giúp đỡ chúng ta, mà chúng ta phải tự vận động phải tự vươn lên, tự tìm ra con đường phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay. Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ bản chất, nguồn gốc và vai trò của những nhân tố bên trong nền kttt, đặc biệt là lợi nhuận.
Lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cao nhất là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp là người sản xuất, cung cấp hàng hoá cho thị trường họ phải bỏ vốn ra để tiến hành sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận thu được là căn cứ cho doanh nghiệp biết mình phải sản xuất hàng hoá gì, số lượng bao nhiêu.
Đây là vấn đề có ý nghĩa rất lớn, cho nên nó được nghiên cứu rất kĩ lưỡng, quá trình nghiên cưú sẽ giúp chúng ta giải đáp được các câu hỏi đặt ra trong lý luận và thực tiễn về sự phát triển của công nghiệp, nông nghiệp .,để thấy được quá trình phát triển của Việt Nam từ đó rút ngắn thời gian thực hiện mục tiêu và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.
18 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1848 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số quan điểm về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu
Như chúng ta đã biết “một chính sách kinh tế nếu không liên quan đến kết quả cuả chủ thể đặt ra thì chính sách ấy cũng không có tác dụng “.Xuất phát từ nguyên tắc trên, với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Nước ta đang chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kttt có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Chúng ta đang chờ đợi sự thành công để đón năm 2020 về cơ bản chúng ta là nước công nghiệp.
Vì thế không ai có thể giúp đỡ chúng ta, mà chúng ta phải tự vận động phải tự vươn lên, tự tìm ra con đường phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay. Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ bản chất, nguồn gốc và vai trò của những nhân tố bên trong nền kttt, đặc biệt là lợi nhuận.
Lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cao nhất là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp là người sản xuất, cung cấp hàng hoá cho thị trường họ phải bỏ vốn ra để tiến hành sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận thu được là căn cứ cho doanh nghiệp biết mình phải sản xuất hàng hoá gì, số lượng bao nhiêu.
Đây là vấn đề có ý nghĩa rất lớn, cho nên nó được nghiên cứu rất kĩ lưỡng, quá trình nghiên cưú sẽ giúp chúng ta giải đáp được các câu hỏi đặt ra trong lý luận và thực tiễn về sự phát triển của công nghiệp, nông nghiệp ...,để thấy được quá trình phát triển của Việt Nam từ đó rút ngắn thời gian thực hiện mục tiêu và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.
Nội dung
I.Nguồn gốc bản chất của lợi nhuận
1.Một số quan điểm về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận
1.1.Trường phái chủ nghĩa trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản ban đầu. Hình thành vào giai đoạn phương thức sản xuất phong kiến tan rã và CNTB ra đời ,ban đầu ở Anh, sau đó ở Pháp, ý và các nước khác, vào khoảng những năm 1940, phát triển tới giữa thế kỉ 17 và sau đó bị suy đồi. Mặc dù thời kì này chưa biết đến quy luật kinh tế và còn hạn chế về quy luật, nhưng hệ thống quan điểm của chủ nghĩa trọng thương đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội cho các lý luận kttt sau này phát triển, như đưa ra quan điểm sự giàu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, là tiền, mục đích hoạt động của kthh thị trường là lợi nhuận.
Học thuyết kinh tế trọng thương cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông, mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có. Tức là trao đổi không ngang giá họ cho rằng “quốc gia nọ giàu nên là bằng sự hi sinh của quốc gia kia; không có một người nào có lợi mà không làm hại đến người khác”.
Đề cao vai trò của nhà nước trong việc can thiệp vào nền kinh tế “chỉ có nhà nước mới làm cho quốc gia trở lên giàu có”. Nhà nước bằng những chính sách : cấm nhập khẩu , đánh thuế các hạn ngạch... do đó đây là tư tưởng mang tính chất hành chính.
Nhưng trong giai đoạn này, các nhà kinh tế học chưa hiểu quan hệ giữa lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. vì ở giai đoạn đầu của thời kì này các nước tư bản đã đưa ra các chính sách làm tăng của cải, tiền tệ, giữ cho khối lượng tiền không ra nước ngoài, tập trung buôn bán để nhà nước dễ kiểm tra, bắt buộc các thương nhân nước ngoài đến buôn bán không được mang tiền về, tức phải dùng số tiền mà họ có mua hết hàng hoá, rồi mang hàng hoá mua được đó về nước.
Vào giai đoạn sau họ dùng chính sách xuất siêu để có chênh lệch, mang tiền ra nước ngoài để thực hiện mua rẻ bán đắt.
Tóm lại những chính sách trên của cntt chỉ mang tính chất bề mặt nông cạn. Chứng tỏ quan điển về lợi nhuận cũng như kinh tế chưa có “chiều sâu “ thực chất do đó phải thoát khỏi phương pháp kinh nghiệm thuần tuý, phải phân tích kinh tế-xã hội với tư cách là một chỉnh thể.
1.2.Quan điểm của trường phái cổ điển về lợi nhuận
Trong thời kì này sự hoạt động của tư bản chủ yếu là trong lưu thông, tư bản chuyển sang lĩnh vực sản xuất .
Các nhà kinh tế học của trường phái này đã chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang sản xuất, lần đầu tiên họ xây dựng hệ thống các phạm trù -quy luật của nền kttt , nổi bật là quan điểm của Ricardo, Samuel....
1.2.1.Quan điểm của Ricardo
D.Ricardo : là nhà tư tưởng của thời đại công nghiệp, ông sử dụng phương pháp khoa học tự nhiên, sử dụng công cụ trùu tượng hoá, đồng thời áp dụng các phương pháp khoa học chính xác, đặc biệt là phương pháp suy diễn để nghiên cứu kinh tế chính trị học.
- Về lợi nhuận : theo ông lợi nhuận là một phần giá trị do công nhân tạo ra, phần còn lại của nhà tư bản sau khi trả lương cho công nhân, và đi đến kết luận quan trọng đó là : mức tiền lương phụ thuộc vào giá cả nông sản, tăng lương sẽ làm cho lợi nhuận giảm.
Ông đã thấy xu hướng giảm sút tỉ suất lợi nhuận, và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận động, biến đổi thu nhập giữu ba giai cấp: địa chủ, công nhân và nhà tư bản.
Ông cho rằng : giá trị do công nhân tạo ra lớn hơn số tiền mà họ nhận được, đó là lợi nhuận ,lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân.
Ông có những nhận xét tiến gần tới lợi nhuận bình quân, cho rằng tư bản có đại lượng bằng nhau thì đem lại lợi nhuận bằng nhau.
Ông giải thích địa tô dựa trên lí luận giá trị. Còn tiền tô là khái niệm rộng hơn địa tô. Địa tô là việc trả cho công nhân những giá trị tự nhiên thuần tuý dựu trên lao động tạo ra .
Ông phủ nhận địa tô tuyệt đối ,chỉ thừa nhận địa tô chênh lệch 1, không biết đến địa tô chênh lệch 2 và không biết công thức cấu tạo hữu cơ của tư bản là: c/v.
1.2.2.Quan điểm của Kene
Là người đặt ra một cách khoa học gttd, nhưng chưa giải thích được vấn đề này, ông gắn sản phẩm thuần tuý với sản xuất.
Ông có ý định phân tích một cách khoa học việc tái sản xuất trong “biểu kinh tế” của mình.
Ông là người đặt nền móng cho việc ngiên cứu sản phẩm tức việc nghiên cứu quan hệ thặng dư sau này. Theo ông trao đổi tm chỉ là việc đổi giá trị sử dụng này lấy giá trị sử dụng khác theo nguyên tắc ngang giá, vì vậy 2 bên không có gì mất huặc được cả, do đó tự nhiên không thể đẻ ra tiền. Mà lợi nhuận tự nhiên có được là do tiết kiệm các khoản chi phí về thương mại và của cải chỉ có thể tạo ra trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp do đó phải chuyển việc nghiên cứu từ lưu thông sang sản xuất.
- Cơ sở khoa học về gttd của Kene
Ông cho rằng :”m chỉ được hình thành trong nông nghiệp”,gttd thực chất chỉ là địa tô.
Kene đã nắm được mối liên hệ giữa khái niệm lao động sản xuất và m, ông cho rằng: chỉ có lao động sản xuất mới là lao động tạo ra m. Sai lầm ở chỗ ông cho rằng chỉ có lao động trong nông nghiệp mới là lao động sản xuất.
Theo ông: kinh tế tiểu nông không thu được sản phẩm thuần tuý, sản phẩm thuần túy do lao động tạo ra, nhưng chỉ lao động sản xuất đại công nghiệp mới tạo ra được nó do đó ý tưởng này không triệt để.
- Biểu kinh tế: Kene phân chia sản phẩm xã hội thành sản phẩm của nông nghiệp và sản phẩm của công nghiệp nhưng dựa vào quan điểm: nông nghiệp tạo ra m.
- ý nghĩa của biểu kinh tế:là mầm mống học thuyết tái sản xuất tbxh của Mác.
- Khuyết điểm: chỉ thấy m trong nông nghiệp, do đó cho rằng trong công nghiệp không có tái sản xuất mở rộng.
1.2.3.Quan điểm của Paul A.Samuelson
Theo Samuelson lợi nhuận kinh doanh là lợi tức ẩn, lợi nhuận là phần thưởng cao việc gánh chịu rủi ro cho sự đổi mới ,lợi nhuận là lợi tức độc quyền.
Ông cho rằng lợi nhuận kinh doanh là tổng hợp của nhiều khoản khác nhau. Phần lớn giá trị lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chỉ là phần lợi tức của các chủ sở hữu công ty có được do lao động của họ hay do vốn đầu tư của họ mang lại. Nếu loại bỏ tất cả các lợi tức ẩn thì ta được lợi nhuận thuần tuý và đó là phần thưởng cho các hoạt động đầu tư có lợi bất định. Khi phân tích phần thưởng cho sự gánh chịu rủi ro nói chung, chúng ta không tính tới các rủi ro do vỡ nợ hay các rủi ro có bảo hiểm . Doanh thu công ty phụ thuộc rất lớn vào thăng trầm trong chu kì kinh doanh. Do các nhà đầu tư không thích rủi ro cho những đầu tư không chắc chắn nên họ luôn có quỹ dư phòng để bù đắp cho những rủi ro của họ .
2.Học thuyết của Mac-Lenin
2.1.Quá trình tạo ra giá trị thặng dư
Trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giá trị sử dụng không phải là mục đích, sản xuất ra gttd chỉ là việc sản xuất ra giá trị kéo dài quá 1 điểm nào đó. Quá trình sản xuất TBCN là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và giá trị thặng dư. C.Mác coi nó là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị , quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá.
Quá trình lao động có 2 đặc trưng:
- Người công nhân lao động với sự kiểm soát của nhà tư bản .
- Sản phẩm làm ra thuộc sơ hữu của nhà tư bản, chứ không phải của người công nhân.
Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất của tư bản thì C.Mac đã chia tư bản ra làm hai bộ phận : tư bản bất biến và tư bản khả biến.
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất được C.Mac gọi là tư bản bất biến và kí hiệu là c .
Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến và kí hiệu là v.
Giá trị=c+v+m.
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và khả biến đã vạch rõ thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa ,chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư của nhà tư bản. Nó được biểu diễn một cách ngắn gọn qua quá trình:
Giá trị=c+v+m
Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm :c
Giá trị sức lao động của người công nhân (mà nhà tư bản trả cho người công nhân ):v
Giá trị mới do người công nhân tạo ra : v-m
M=m’Y=m.V/ v
Như thế tư bản bỏ ra một lương tư bản để tạo ra giá trị là :c+v. Nhưng giá trị mà tư bản thu vào là c+v+m. Phần M dôi ra là phần mà tư bản bóc lột của ngươì công nhân.
2.2.Lợi nhuận - tỉ suất lợi nhuận
-Lợi nhuận: là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Giá trị hàng hoá, chi phí sản xuất TBCN luôn luôn có một khoảng chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hoá mà tư bản không chỉ bù đắp đủ số tư bản ứng ra mà còn thu được một số tiền lớn.
GT=m+p
Giữa p và m có sự khác nhau: về mặt lượng, nếu hàng hoá bán đúng giá trị thì m=p đều chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê; về mặt chất, m phản ánh nguồn gốc từ v, p xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra.
- Tỉ suất lợi nhuận: là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.
p’=m/(c+v).100%
Tỉ suất lợi nhuận cho biết nhà tư bản đầu tư vào đâu là có lợi
- Sự chuyển hoá tỉ suất giá trị thặng dư thành tỉ suất lợi nhuận, giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận thông qua tỉ suất lợi nhuận chỉ là sự phát triển đảo ngược chủ thể diễn ra trong sản xuất. Do đó mọi sức lao động đều biểu hiện thành sức sản xuất tư bản.
Tỉ suất lợi nhuận biểu thị không một cái gì khác ngoài cái thực tế của nó, người ta biết được giá trị thặng dư là bao nhiêu, từ đó tìm được con số chỉ rõ tư bản được làm tăng thêm giá trị của tư bản, khi đó tỉ suất lợi nhuận biểu thị một cách chính xác hơn, mặc dù tỉ suất lợi nhuận khác tỉ suất giá trị thặng nhưng nó vẫn bằng nhau về mặt số lượng nhưng lợi nhuận vẫn là hình thái chuyển hoá giá trị thặng dư, chỉ thông qua sự phân tích người ta có thể tách được giá trị thặng dư ra khỏi lợi nhuận. Sự tăng lên của tỉ suất lợi nhuận là do giá trị thặng dư tăng lên tương đối hay tuyệt đối so với chi phí sản xuất, dù tồn tại dưới hình thức nào thì đều do sự tăng giảm của thời gian lao động cần thiết.
3.Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
3.1.Lợi nhuận thương nghiệp
C.Mac nói lợi nhuận thương nghiệp không những là kết quả của việc ăn cắp lừa đảo, mà đại bộ phận lợi nhuận thương nghiệp là do những việc ăn cắp và lừa đảo.
Nếu nhìn từ bên ngoài thì lợi nhuận thương nghiệp là mua rẻ, bán đắt, do lưu thông tạo ra. Nhưng thực chất thì lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp được thể hiện qua: tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông nếu không có lợi nhuận thì không hoạt động, tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng quy mô sản xuất, tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng thị trường.
Do nhà tư bản rảnh tay trong lưu thông do đó đẩy mạnh sản xuất do đó lợi nhuận được tăng lên.
Tư bản thương nghiệp làm cho tỉ suất lợi nhuận xã hội tăng lên, góp phần tích luỹ cho tư bản công nghiệp.
Lợi nhuận thương nghiệp là chênh lệch giữa giá bán và mua hàng hoá. Sự phân chia giá trị thặng dư được tiến hành theo tỉ suất lợi nhuận bình quân dẫn đến trong đời sống xã hội trung bình hình thành hai giá trị sản xuất: giá cả sản xuất công nghiệp, giá cả sản xuất thực tế.
3.2.Lợi nhuận công nghiệp
Trong công nghiệp để cung cấp hàng hoá dịch vụ cho thị trường các nhà sản xuất phải bỏ tiền ra để sản xuất, lợi nhuận ở đây là sự chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí, lợi nhuận công nghiệp là một hình thái gồm với giá trị thặng dư, đó là động lực phát triển mạnh mẽ của sản xuất . Giá trị do công nhân lao động tạo ra bị nhà tư bản chiếm lấy, phần này bán trên thị trường thu được số lớn. Khi đó cứ một doanh nghiệp thì lợi nhuận luôn có tầm vĩ mô, doanh thu của doanh nghiệp luôn có được nhờ bán hàng hoá và dịch vụ, qúa trình này cũng được tư bản công nghiệp chia cho một phần lợi nhuận. Lợi nhuận đó sau này được gọi là lợi nhuận thương nghiệp.
Các nhà tư bản hoạt động trong mọi hình thức cũng đều thu được lợi nhuận, để thu được lợi nhuận thì các nhà tư bản luôn phải cải tiến kĩ thuật, mở mang kiến thức, đào tạo tay nghề có chuyên môn hoá cao.
3.3.Lợi tức cho vay
Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển tư bản công nghiệp luôn có tư bản tiền tệ nhàn rỗi.
VD: như tiền lương quỹ khấu hao của tư bản cố định dùng tiền mua nguyên vật liệu.
Đối với nhà tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền vì vậy nhà tư bản phải vay tiền để kiếm lãi.
Lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng. Nhà tư bản rất cần mở rộng sản xuất do đó họ có nhu cầu đi vay, tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lãi nào đó, đó chính là lợi tức.
Nguồn gốc của lợi tức là giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra khi sản xuất nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức che dấu mất thực chất bóc lột TBCN.
3.4.Lợi nhuận ngân hàng
Lợi nhuận ngân hàng là thu nhập của nhà tư bản, ngân hàng là hình thái biến tướng riêng biệt của m .Ngân hàng TBCN là tổ chức kinh doanh tư bản tiền tệ, ngân hàng thu lợi tức của người đi vay. Lợi tức nhận gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay, con số chênh lệch này là lợi nhuận ngân hàng.
Ngân hàng cho các nhà trực tiếp sản xuất kinh doanh vay, nhà tư bản lấy số tiền đó để sản xuất ra giá trị thặng dư, lợi nhuận ngân hàng cũng là giá trị thặng dư.
Sự cạnh tranh giữa các ngành là do lợi nhuận ngân hàng quyết định.
3.5.Địa tô
Địa tô TBCN là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
Địa tô=m-p
Các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân, nhà tư bản phải thu thêm một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân đó là lợi nhuận siêu ngạch, họ phải trả cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô TBCN.
3.6.Lợi nhuận độc quyền
Do tư bản độc quyền giữ vị trí thống trị trong sản xuất lưu thông nên nó được sử dụng phương pháp cưỡng bức nền kinh tế thu lợi nhuận cao, đó chính là lợi nhuận độc quyền.
Lợi nhuận độc quyền là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư, bao gồm lợi nhuận bình quân và lợi nhuận siêu ngạch . Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền là giá trị thặng dư của công nhân, lợi nhuận thu được do xuất khẩu tư bản và sản xuất hàng hoá cho các nước, lợi nhuận thu được do việc phân hoá nền kinh tế.
II.Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường
1.Khái niệm về nền kinh tế thị trường_ảnh hưởng của cơ chế đến việc thu lợi nhuận.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó việc sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào sản xuất cho ai.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, mà kinh tế thị trường là tổng thể các yếu tố vận động dưới sự chi phối của quy luật thị trường cạnh tranh, thu được lợi nhuận biểu hiện kết quả cung cầu, giá cả .
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh, tạo điều kiện hoạt động tự do làm cho nền kinh tế phát triển năng động, sự tác động của cơ chế thị trường của lợi nhuận khuyến khích doanh nghiệp mở rộng sản xuất đáp ứng nhu cầu xã hội.
Tuy nhiên cơ chế thị trường vẫn tồn tại nhiều khuyết điểm: không tồn tại thị trường thuần tuý mà thường có sự can thiệp của nhà nước (nền kinh tế hỗn hợp).
1.1.Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Lực lượng sản xuất bao gồm những tư liệu sản xuất và người lao động, với mục đích là thu được lợi nhuận ngày càng nhiều thì các nhà kinh doanh đã kéo dài ngày lao động của công nhân nhưng công nhân đã không đồng ý và biểu tình chống lại, nhà tư bản đã áp dụng những kĩ thuật mới và nhằm làm tăng năng suất lao động. Những phát minh mới lần lượt ra đời trong tk 19 và 20.
Lợi nhuận đã buộc các nhà sản xuất tìm cách giảm chi phí đến mức thấp nhất từ đó sẽ kích thích người tiêu dùng mua nhiều hàng hoá hơn, để giảm chi phí sản xuất doanh nghiệp tiến hành nhiều biện pháp khác nhau, như là tiết kiệm nguyên vật liệu, phát triển công nghệ, đầu tư mua sắm trang tiết bị....do đó lực lượng sản xuất đã phát triển.
1.2.Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau tức là khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phải phát triển và ngược lại.
Do tác động của lợi nhuận, do sự phân chia lợi nhuận dưới nhiều hình thức khác nhau một cách hết sức chặt chẽ giữa các bên tham gia vào quá trình phân chia đã làm cho chế độ sở hữu ngày càng được củng cố và phát triển. Quan hệ sở hữu từng bước được thắt chặt hơn, bên cạnh đó mục đích lợi nhuận luôn đặt các nhà kinh tế, các tổ chức kinh tế trước yêu cầu hiệu quả, điều đó đòi hỏi tính chuyên môn hoá cao và tổ chức lại các bộ phận quản lý nhịp nhàng thông suốt tránh sự trì trệ không cần thiết trong một số khâu nào đó làm ảnh hưởng tới cả hệ thống quản lý, hạn chế bớt một bộ phận quản lý cồng kềnh không cần thiết.
Xuất phát từ mục tiêu ổn định và phát triển có kế hoạch phân bố lực lượng lao động một cách hợp lý, khai thác tốt nguồn tài nguyên. Tất cả những những vấn đề trên đều xuất phát từ lợi nhuận và nó đã thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động diễn ra mạnh mẽ. Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế thì ngoài phân phối theo lao động còn có sự phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội.
-P làm chuyển đổi kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa sang kinh tế thị trường.
Đi từ kinh tự nhiên đến kinh tế hàng hoá rồi đến kinh tế thị trường quá trình này phát triển song song với mục đích thu được lợi nhuận ngày càng cao nhằm đảm bảo nhu cầu tốt hơn về cuộc sống, với nền sản xuất hàng hoá sản phẩm sản xuất ra để bán trên thị trường mọi người được tự do buôn bán, thị trường ngày càng được mở rộng.
Khi kinh tế hàng hoá phát triển sẽ làm cho quá trình sản xuất diễn ra mạnh mẽ, nhà nước phải quản lý ở tầm vĩ mô vì cũng do P mà các nhà kinh tế có thể bất chấp các thủ đoạn dẫn đến sự mất an toàn cho những nhà kinh doanh với nhau, sự mất ổn định về chính trị xã hội. Nhà nước cần đưa ra các chính sách pháp luật đúng đắn trong kinh doanh để sử lý những tranh chấp trong kinh doanh và những vi phạm luật kinh tế, tạo môi trừơng thuận lợi cho các nhà kinh doanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển ngày càng mạnh mẽ.
1.3.Vai trò của lợi nhuận đối với các mặt của đời sống xã hội
Phân phối theo lao động và theo tài sản vốn đều là tất yếu khách quan trong trong quá độ hiện nay vì các hình thức đó đều nhằm mục đíc