Xoá đói giảm nghèo là chủ trương lớn của UBND tỉnh Nghệ An nhằm cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát
triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư. Thành tựu xoá đói giảm
nghèo trong những năm qua là rất đáng kể, song kết quả giảm nghèo chưa vững chắc.
Bài viết này đi sâu phân tích thực trạng xóa đói giảm nghèo ở Nghệ An thời gian qua,
từ đó tìm ra các nguyên nhân đói nghèo và đề xuất một số giải pháp chủ yếu để xóa
đói giảm nghèo trên địa bàn trong thời gian tới.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 549 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề công tác giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Nghệ An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2015 [35]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Nghệ An là một tỉnh có diện tích tự nhiên
lớn nhất cả nước (16.492,7km2), dân số đông
2.978,7 nghìn người. Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo
của toàn tỉnh chiếm 10,28% tổng số hộ dân, số
xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 25% đã giảm từ 118
xã (năm 2012) xuống còn 89 xã (năm 2014),
tương ứng với 39.887 hộ nghèo thì đây đang
là một con số lớn. Đặc biệt, khu vực miền núi và bãi
ngang ven biển có tỷ lệ hộ nghèo cao, nguy cơ tái nghèo
lớn. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giảm
nghèo, phát triển kinh tế - xã hội của toàn tỉnh, đặc biệt
là khai thác và bảo vệ tài nguyên theo hướng bền vững.
1. Thực trạng giảm nghèo và một số vấn đề đặt ra
1.1. Kết quả điều tra hộ nghèo
Năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo của toàn tỉnh
chiếm 10,28%, tương ứng 81.384 hộ. Phân
hóa số hộ nghèo rất lớn giữa đồng bằng và
trung du, miền núi: đồng bằng là 4,8%, tương
ứng 24.157 hộ; trung du, miền núi là 19,86%,
tương ứng 57.227 hộ. Như vậy, số hộ nghèo
khu vực trung du, miền núi chiếm hơn 70,3%
số hộ nghèo toàn tỉnh, trong đó 5/11 huyện tỷ
lệ hộ nghèo lớn hơn 35%, 62 xã có tỉ lệ hộ
nghèo trên 35%, 35 xã có tỉ lệ hộ nghèo trên
50%, đặc biệt có 03 xã tỉ lệ hộ nghèo trên 80%.
Nếu xét số hộ nghèo miền núi thì 07/11 huyện
có trên 5.000 hộ nghèo, trong đó Kỳ Sơn 7.907
hộ, Tương Dương 7.761 hộ, Thanh Chương 7.146 hộ.
Do vậy giải quyết vấn đề nghèo ở trung du, miền núi là
điều vô cùng cấp thiết.
Bên cạnh đó, vùng bãi ngang ven biển có 8 xã có
tỷ lệ hộ nghèo cao, nguy cơ tái nghèo lớn: 3 xã thuộc
huyện Quỳnh Lưu (Quỳnh Lộc, Quỳnh Thọ, Quỳnh
Liên); 3 xã thuộc huyện Diễn Châu (Diễn Bích,
Diễn Trung, Diễn Vạn); 1 xã thuộc huyện Nghi Lộc
(Nghi Tiến); 1 xã thuộc thị xã Cửa Lò (Nghi Tân).
Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giảm
nghèo, phát triển kinh tế - xã hội của toàn tỉnh, đặc
biệt là khai thác, bảo vệ tài nguyên ven biển theo
hướng bền vững.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO
n TS. Hoàng Phan Hải Yến - Trường Đại học Vinh
Th.s Đậu Quang Vinh - Trung tâm KHXH&NV Nghệ An
tRÊN ĐỊA BÀN tỈNH NGHỆ AN
Xoá đói giảm nghèo là chủ trương lớn của UBND tỉnh Nghệ An nhằm cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát
triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư. Thành tựu xoá đói giảm
nghèo trong những năm qua là rất đáng kể, song kết quả giảm nghèo chưa vững chắc.
Bài viết này đi sâu phân tích thực trạng xóa đói giảm nghèo ở Nghệ An thời gian qua,
từ đó tìm ra các nguyên nhân đói nghèo và đề xuất một số giải pháp chủ yếu để xóa
đói giảm nghèo trên địa bàn trong thời gian tới.
Bảng 1: Kết quả điều tra hộ nghèo năm 2014 tỉnh Nghệ An
Khu vực Tổng số hộ dân cư (hộ) Tổng số hộ nghèo (hộ) Tỷ lệ hộ nghèo (%)
Đồng bằng 503.444 24.157 4,80
Miền núi 288.112 57.227 19,86
Toàn tỉnh 791.557 81.384 10,28
Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2015 [36]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
1.2. Kết quả điều tra hộ cận nghèo
So với hộ nghèo, số hộ cận nghèo cao gấp
1,1 lần, tương ứng với 90.354 hộ. Đây là con
số lớn mà nguy cơ trở thành hộ nghèo rất cao
do những hoàn cảnh đặc biệt tạo nên.
Nếu như tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền
núi gấp gần 2,4 lần khu vực đồng bằng thì
ngược lại, số hộ cận nghèo ở khu vực đồng
bằng lớn hơn khu vực miền núi. Đây đang là
một nguy cơ lớn cho khu vực đồng bằng và
là một trong những bài toán đặt ra cho các
cấp chính quyền của tỉnh trong việc đề ra các
giải pháp góp phần ngăn ngừa khả năng hộ
cận nghèo trở thành hộ nghèo.
Trên địa bàn toàn tỉnh năm 2014 có 6/21
huyện có tỉ lệ hộ cận nghèo lớn hơn 15% tập
trung ở khu vực miền núi; có 7/21 huyện có
tổng số hộ nghèo trên 5.000 hộ, cao nhất phải
kể đến huyện Thanh Chương (10.826 hộ),
Diễn Châu (9.285 hộ), Yên Thành (8.534 hộ);
có 4 xã có tỉ lệ hộ cận nghèo trên 50%, đặc
biệt có 1 xã tỷ lệ hộ cận nghèo 22,91% nâng
tổng số hộ nghèo và hộ cận nghèo lên 100%
là xã Bắc Lý (huyện Kỳ Sơn).
1.3. Những chính sách giảm
nghèo đã và đang thực hiện trên
địa bàn tỉnh
Trong những năm qua (2011-
2013), tỉnh Nghệ An đã thực hiện:
Các chương trình phát triển kinh tế
- xã hội gắn với công tác giảm
nghèo của Trung ương, của tỉnh đối
với miền Tây Nghệ An theo Quyết
định 147/2005/QĐ-TTg ngày
15/6/2005, Quyết định số 2355/QĐ-
TTg ngày 04/12/2013 của Thủ
tướng Chính phủ, Chương trình hỗ
trợ giảm nghèo nhanh và bền vững
đối với 62 huyện nghèo theo Nghị
quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính
phủ, Chương trình 134/CP, Chương trình 135/CP,
Chương trình 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về Đào tạo nghề cho lao động nông thôn, Chương trình
xây dựng nông thôn mới; Các chính sách của tỉnh
theo Quyết định số 59/2010/QĐ-UBND ngày
12/8/2010 về hỗ trợ giảm nghèo đối với 42 xã có tỷ lệ
hộ nghèo từ 30% trở lên ngoài Nghị quyết 30a, Quyết
định số 1310/QĐ-UBND ngày 20/4/2012 phân công 86
cơ quan, đơn vị giúp đỡ 88 xã nghèo miền Tây, các
chính sách hỗ trợ đào tạo dạy nghề, giải quyết việc làm,
xuất khẩu lao động, khuyến nông, khuyến lâm. Cùng
với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền,
các ngành từ tỉnh đến cơ sở, tập trung khai thác, phát
huy nội lực của từng địa phương và sự nỗ lực, phấn
đấu của nhân dân, sự đầu tư, hỗ trợ của các doanh
nghiệp nên kinh tế - xã hội, hệ thống cơ sở hạ tầng, đời
sống của người dân vùng miền Tây đã có sự chuyển
biến tích cực, quốc phòng, an ninh được giữ vững và
ổn định. Đặc biệt là sự tham gia, chung tay giảm nghèo
của toàn bộ các cấp chính quyền, kể cả mỗi cá nhân
trong xã hội, công tác giảm nghèo trên địa bàn tỉnh
thực sự đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể:
Khu vực Tổng số hộ dân cư (hộ) Tổng số hộ cận nghèo (hộ) Tỷ lệ hộ cận nghèo (%)
Đồng bằng 503.444 45.831 9,10
Miền núi 288.112 44.523 15,45
Toàn tỉnh 791.557 90.354 11,41
Bảng 2: Kết quả điều tra hộ cận nghèo năm 2014 tỉnh Nghệ An
Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
Những đứa trẻ ở xã nghèo Bắc Lý, Kỳ Sơn
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2015 [37]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
- Dự án tín dụng ưu đãi hộ nghèo phát triển sản xuất
từ Ngân hàng chính sách xã hội. Trong 5 năm (2011-
2015), doanh số cho vay trong 5 năm ước đạt 8.670,0
tỷ đồng, trong đó: hộ nghèo vay vốn phát triển sản xuất
3.005,8 tỷ đồng, với 148.363 lượt hộ vay và trên
5.642,2 tỷ đồng cho vay các đối tượng: học sinh sinh
viên, hộ nghèo xây dựng nhà ở, xuất khẩu lao động,
xây dựng công trình nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn. Mức dư nợ bình quân/hộ đạt 19,5 triệu
đồng, tăng 6,9 triệu đồng so với năm 2010. Việc thực
hiện có hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi đã tạo điều
kiện về vốn cho hộ nghèo phát triển sản xuất, kinh
doanh, tạo thu nhập, vươn lên thoát nghèo, ổn định
cuộc sống, góp phần giảm hơn 70.000 hộ nghèo trong
giai đoạn từ 2011-2015.
- Mua, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo,
người cận nghèo: số tiền 1.897,60 tỷ đồng; trong đó
năm 2014 là 420,3 tỷ đồng, toàn tỉnh đã hỗ trợ, cấp phát
trên 35.952.000 lượt thẻ bảo hiểm cho người nghèo và
cận nghèo. Đảm bảo 100% người nghèo được hỗ trợ
bảo hiểm y tế hàng năm.
- Miễn, giảm học phí và hỗ trợ các khoản chi phí
học tập: 858,71; trong đó, năm 2014 là 154,5 tỷ đồng
thực hiện Nghị định 49/NĐ-CP của Chính phủ cho
1.226.851 lượt học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo và
các đối tượng chính sách.
- Hỗ trợ làm nhà ở cho hộ nghèo theo Quyết định số
167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng
Chính phủ và Quyết định số 716/2012/QĐ-TTg về thí
điểm xây dựng chòi phòng chống lũ, lụt: với số kinh phí
cả giai đoạn 2009-2012 là 439,118 tỷ đồng, đã
có 28.261 hộ nghèo được hưởng chính sách hỗ
trợ nhà ở theo đề án phê duyệt và hoàn thành
100% chỉ tiêu kế hoạch vào cuối năm 2012.
- Hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo theo Quyết
định 286/QĐ-TTg ngày 23/2/2011 của Thủ
tướng Chính phủ: cho 603.250 lượt hộ nghèo,
kinh phí thực hiện 217,19 tỷ đồng; trong đó,
năm 2014 là 37 tỷ đồng.
- Hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
các xã nghèo đặc biệt khó khăn vùng miền
núi theo Chương trình 135, vùng bãi ngang
ven biển thuộc Chương trình mục tiêu quốc
gia giảm nghèo bền vững: số vốn 703,64 tỷ
đồng; trong đó năm 2014 là 169,39 tỷ đồng,
phân bổ đầu tư 1.224 danh mục công trình.
Trong đó, giao thông: 430 công trình (CT),
thủy lợi: 151 CT, cầu cống: 25 CT, nước sinh
hoạt: 44 CT, trường học: 221 CT, trạm y tế:
94 CT, điện 66 CT, chợ nông thôn: 13 CT,
nhà cộng đồng: 180 CT. Đầu tư trên địa bàn
có 107 xã, 1.188 thôn, bản đặc biệt khó khăn
vùng dân tộc, miền núi và 12 xã vùng bãi
ngang ven biển.
- Đầu tư xây dựng 15 mô hình giảm nghèo
tại 15 xã thuộc 15 huyện với 737 hộ nghèo
tham gia, số tiền: 4,5 tỷ đồng, trong đó năm
2014 là 500 triệu đồng.
- Đầu tư tập huấn bồi dưỡng, đào tạo nâng
cao trình độ, năng lực cho cán bộ làm công
tác xóa đói giảm nghèo các cấp: 4,63 tỷ đồng;
trong đó năm 2014 là 809 triệu đồng, tổ chức
277 lớp với số lượng 33.056 lượt cán bộ tham
gia, trong đó 95% là cán bộ cơ sở thôn, bản
và xã.
1.4. Một số tồn tại và những vấn đề đặt ra
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực và đầu tư kinh
phí để thực hiện cho giảm nghèo là rất lớn và
đã đạt được những thành công nhất định. Tuy
nhiên vẫn còn những vấn đề đặt ra cần giải
quyết như sau:
- Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh Nghệ An còn cao
hơn mức bình quân của cả nước (năm 2014
cả nước chỉ còn 6%).
- Hộ nghèo và hộ cận nghèo tập trung tỷ
lệ lớn ở vùng miền núi, đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng ven biển.
Niềm vui của học sinh xã Bảo Thắng, Kỳ Sơn
khi đón nhận chương trình “Áo ấm cho em”
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2015 [38]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
- Kết quả giảm nghèo chưa bền vững,
nguy cơ tái nghèo còn cao.
- Nhận thức và trách nhiệm đối với công
tác xóa đói giảm nghèo của cấp ủy Đảng,
chính quyền, đoàn thể ở một số huyện, xã và
một số ban ngành chưa sâu sắc và toàn diện,
công tác phối hợp chỉ đạo và điều hành chưa
nhất quán, nhiều khi còn lúng túng. Lãnh đạo
một số cơ sở và bản thân các hộ nghèo ở miền
núi đang có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào
nguồn hỗ trợ của Nhà nước, chưa huy động
và khai thác được nguồn nội lực để thực hiện
chương trình tại địa phương.
- Một số chính sách hỗ trợ xã nghèo, hộ
nghèo chưa có tác dụng khuyến khích hộ
nghèo, xã nghèo phấn đấu thoát nghèo, tư
tưởng không muốn ra khỏi danh sách xã
nghèo, hộ nghèo còn nặng trong một bộ phận
nhân dân và cán bộ cơ sở.
- Việc xây dựng và tổ chức thực hiện các
dự án thuộc chương trình của các ngành chức
năng chưa đồng bộ. Vấn đề xây dựng mô
hình, kiểm tra chỉ đạo và sơ tổng kết, nhân
rộng chưa được quan tâm đúng mức, thường
xuyên.
- Trong việc thực hiện dự án tín dụng ưu
đãi hộ nghèo, một bộ phận hộ nghèo chưa
tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng ưu đãi,
trong khi đó vẫn còn tình trạng cho vay
không đúng đối tượng, cho vay tràn lan, đồng
đều do chưa phân loại hộ nghèo theo mục
đích vay vốn. Một bộ phận hộ nghèo sử dụng
vốn vay không đúng mục đích nên không
phát huy được hiệu quả sản xuất. Trên lý
thuyết, các hộ nghèo cam kết vay vốn để làm
ăn, phát triển kinh tế gia đình, nhưng trên
thực tế thì không phải như vậy. Mục đích vay
vốn của một số hộ nghèo rất khác nhau: Vay
vốn về dùng để trả nợ cho những đợt vay
trước, lấy chỗ nọ để đắp chỗ kia; Sử dụng vốn
vay để mua sắm các vật dụng trong gia đình
như tivi, xe máy, uống rượu; Người chủ hộ
đứng ra vay vốn chủ yếu là nam, vai trò của
phụ nữ không được quan tâm.
- Nội dung tập huấn hướng dẫn cách làm
ăn cho người nghèo chưa sát với tình hình
thực tế ở các địa phương.
- Một số mô hình kinh tế của tỉnh trong những năm
qua chưa phù hợp với điều kiện tự nhiên, tài nguyên và
tập quán sản xuất, tâm lý dân cư (vùng miền núi chủ
yếu là dân tộc thiểu số) tại một số địa phương nên hiệu
quả không cao.
- Chưa quan tâm đến mong muốn nguyện vọng,
chưa lắng nghe tiếng nói của các hộ nghèo.
1.5. Nguyên nhân
* Về khách quan:
Một là, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội vùng
miền núi và ven biển còn nhiều hạn chế nhìn chung
nguồn thu nhập của nhân dân chủ yếu dựa vào sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, chịu nhiều ảnh hưởng về điều kiện sản xuất canh
tác khó khăn, tưới tiêu không chủ động, diện tích đất
sản xuất nông nghiệp thấp, thời tiết, khí hậu không
thuận lợi, giá cả vật tư, phân bón tăng cao...
Hai là, vị trí địa lý không thuận lợi, vùng miền
Tây địa hình phức tạp, đại đa số đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống, quen với tập quán sản xuất tự
cung tự cấp, trình độ dân trí còn hạn chế và không
đồng đều. Tính tự phát, manh mún trong sản xuất
còn phổ biến, tiềm năng, thế mạnh chưa được khai
thác. Vùng ven biển bị ảnh hưởng trực tiếp bởi triều
cường, nước biển dâng làm đất đai bị nhiễm mặn do
ngập nước biển, bạc màu khó canh tác, chịu nhiều
rủi ro vào mùa mưa bão...
Ba là, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng đã
có nhiều bước phát triển, rõ nhất là đường giao thông,
trường học, các trung tâm y tế, trạm y tế xã... nhưng
vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất và sinh
hoạt của nhân dân.
Bốn là, Nhà nước ban hành nhiều chính sách hỗ trợ
giảm nghèo nhưng nguồn lực đầu tư còn hạn chế, một
số chính sách hỗ trợ trực tiếp không khuyến khích được
sự nỗ lực vươn lên của người nghèo; một số chính sách
duy trì quá lâu, không phát huy hiệu quả, chậm được
sửa đổi, bổ sung.
* Về chủ quan:
Thứ nhất, người dân còn thiếu kiến thức, thiếu
chuyên môn kỹ thuật nên việc tiếp cận khoa học, kỹ
thuật trong đời sống sản xuất còn hạn chế, năng suất
lao động thấp.
Thứ hai, phần lớn hộ nghèo không biết tính toán
cách làm ăn, chưa có kế hoạch trong sản xuất và chi
tiêu nên việc tích lũy cho tái đầu tư sản xuất không thực
hiện được, thiếu vốn cho sản xuất và kinh doanh.
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2015 [39]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Thứ ba, số hộ nghèo đông con, đông
người ăn theo, thiếu việc làm, thời gian nhàn
rỗi chiếm tỷ lệ cao. Còn có một bộ phận
người trong hộ gia đình lười lao động và gia
đình có người mắc các tệ nạn xã hội như
nghiện ma tuý, nghiện rượu, cờ bạc, mại
dâm. Một bộ phận hộ nghèo do có người đau
yếu dài ngày...
Thứ tư, tình trạng du canh du cư, di cư tự
do trái phép của một số hộ đồng bào dân tộc
thiểu số, nhất là đồng bào người Mông vùng
miền Tây và vẫn còn một số hủ tục lạc lậu
chưa được bãi bỏ gây không ít khó khăn cho
công tác quản lý, làm hạn chế kết quả thực
hiện chính sách của nhà nước và mục tiêu
giảm nghèo trên địa bàn.
Thứ năm, công tác bố trí lồng ghép nguồn
vốn đầu tư trong lĩnh vực giảm nghèo còn
hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu, đầu tư nhỏ
lẻ, dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm và
chưa đồng bộ dẫn đến hiệu quả đầu tư chưa
cao hoặc chậm phát huy tác dụng, thậm chí
gây lãng phí.
Thứ sáu, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của một
số cấp ủy Đảng, chính quyền, hệ thống chính
trị các cấp đối với công tác giảm nghèo, giải
quyết việc làm còn hạn chế; năng lực điều
hành, quản lý nhà nước về công tác giảm
nghèo của một số cán bộ còn yếu. Nhận thức
của một bộ phận lãnh đạo ở cơ sở và các hộ
nghèo đang còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào
nguồn hỗ trợ của Nhà nước. Tư tưởng muốn
được thụ hưởng các chính sách đối với xã
nghèo, hộ nghèo còn nặng trong một bộ phận cán bộ
và nhân dân.
2. Một số giải pháp góp phần giảm nghèo theo
hướng bền vững
a. Phải xác định lại công tác giảm nghèo không
chỉ của các cấp chính quyền trên địa bàn tỉnh mà
phải từ bản thân các hộ nghèo, hộ cận nghèo. Giảm
sự trông chờ, ỷ lại, sức ỳ lớn trong bản thân hộ
nghèo, hộ cận nghèo.
Cụ thể: Tuyên truyền, giáo dục tư tưởng thoát nghèo
đến từng hộ nghèo, hộ cận nghèo bằng nhiều hình thức
như vận động, khuyến khích, trao đổi, chỉ dẫn để hộ
nghèo, hộ cận nghèo xác định được nghĩa vụ của mình
cần thực hiện các chính sách thoát nghèo, tự chuyển đổi
nghề nghiệp, chuyển đổi cơ cấu lao động, biết sản xuất
kinh doanh để vươn lên thoát nghèo.
Có chính sách biểu dương, khen thưởng và tạo mọi
điều kiện đối với những hộ từ hộ nghèo vươn lên thoát
nghèo, từ hộ nghèo vươn lên thoát khỏi hộ cận nghèo
nhằm tạo đòn bẩy cho chính hộ đó, đồng thời tạo động
lực cho các hộ nghèo thi đua thoát nghèo.
b. Áp dụng công nghệ, khoa học kỹ thuật vào sản xuất
và phát triển kinh tế gắn với khai thác tiềm năng, thế
mạnh của từng địa bàn, từng vùng
Xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất kinh
doanh mang lại hiệu quả kinh tế, giá trị thu nhập cao,
gắn với tri thức bản địa và đặc thù, đặc sản của vùng như:
mô hình chuyển lúa màu, hè thu sang trồng ngô đông
trên đất 2 lúa, chăn nuôi lợn đen địa phương, cải tạo rừng
nghèo kiệt (Quỳ Châu, Nghĩa Đàn), thâm canh lúa cho
các xã đặc biệt khó khăn, trồng gừng dưới tán rừng
(Tương Dương, Kỳ Sơn), thâm canh rau an toàn (Quỳ
Hợp, Quỳ Châu), thâm canh ngô mật độ cao (Anh Sơn,
Xoá đói giảm nghèo
là chủ trương lớn, nhất quán
của Đảng, Nhà nước
và là sự nghiệp của toàn dân
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 9/2015 [40]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Thanh Chương), trồng bí xanh (Kỳ Sơn), trồng
chanh leo, sử dụng phân dúi (Quế Phong), cam
không hạt (Quỳ Hợp).v.v...
Phát triển làng nghề mây tre đan xuất khẩu,
dệt thổ cẩm, đá mỹ nghệ, gắn hoạt động kinh
tế của làng nghề với hoạt động dịch vụ du lịch
và bảo tồn, phát triển văn hóa truyền thống.
Phát triển đa dạng các loại hình du lịch, sản
phẩm du lịch, với các địa bàn trọng điểm như
Vườn quốc gia Pù Mát và vùng phụ cận các
huyện Quế Phong, Quỳ Châu, Tương Dương,
thị xã Thái Hòa...
c. Thu hút các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế - xã hội
Tiếp tục tăng cường các hoạt động xúc tiến
đầu tư, thu hút các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế - xã hội đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ trên địa bàn vùng miền Tây
và ven biển, tạo bước đột phá trong phát triển
kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế để giải quyết việc làm, thu
nhập ổn định, chuyển dịch cơ cấu nguồn lực
lao động. Đồng thời tạo điều kiện cho các địa
phương tăng nguồn thu ngân sách và người
dân có điều kiện tăng thu nhập góp phần tích
cực vào công tác giảm nghèo và nâng cao mức
sống nhân dân trong từng vùng.
Thu hút doanh nghiệp đầu tư, sử dụng lao
động địa phương tại các xã nghèo. Có chính
sách hỗ trợ các doanh nghiệp để tạo vốn làm
ăn kinh doanh ổn định, lâu dài. Ưu tiên phát
triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản, thực
phẩm có thế mạnh như sản xuất đường, các
sản phẩm sau đường, chế biến chè, dứa, mủ
cao su, sữa, thịt, các sản phẩm gỗ, bột giấy,
thủy hải sản và chế biến thủy sản...
d. Dạy nghề gắn với giải quyết việc làm và xuất khẩu
lao động cho người lao động
Thực hiện tốt chính sách đào tạo, dạy nghề, tạo
việc làm mới và xuất khẩu lao động cho hộ nghèo, hộ
cận nghèo. Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt Quyết định
số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng
Chính phủ, Quyết định số 3846/QĐ-UBND ngày
30/8/2010 của UBND tỉnh về đào tạo nghề cho lao
động nông thôn tỉnh Nghệ An đến năm 2020. Thực
hiện đào tạo nghề theo địa chỉ bằng việc gắn kết các
cơ sở đào tạo dạy nghề với các doanh nghiệp để bố trí
việc làm sau đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động
của doanh nghiệp... Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng thiết yếu phục vụ sản xuất kinh doanh và dân
sinh ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven
biển và miền núi, đồng thời quản lý và phát huy hiệu
quả các công trình đó; từng bước phát huy lợi thế về
địa lý, khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an
ninh - chính trị, trật tự xã hội.
3. Kết luận
Xoá đói giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của
Đảng, Nhà nước và là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy
động nguồn lực của Nhà nước, xã hội và người dân để
khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của địa phương,
nhất là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để xóa đói
giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với sự đầu
tư, hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã hội, sự nỗ lực
phấn đấu vươn lên thoát nghèo của người nghèo, hộ
nghèo là nhân tố quyết định thành công của công cuộc
xoá đói giảm nghèo, phải nhận thức đúng đắn xóa đói
giảm nghèo không chỉ là trách nhiệm của cộng đồng mà
phải có sự nỗ lự