Một số vấn đề pháp lý trong hợp đồng cho thuê tài chính

Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực hoạt động khác, thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực. Đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với những ngành mũi nhọn, đồng thời lựa chọn các công nghệ thích hợp không gây ô nhiễm và khai thác được lợi thế về lao động. Chú trọng nhập khẩu công nghệ mới, cải tiến từng bộ phận tiến tới tạo ra những công nghệ đặc thù Việt Nam. Hiện đại hoá công nghệ trong quản lý". Đây là những yêu cầu để thực hiện "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI - Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp" mà báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII tại Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra. Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng không còn phù hợp với tình hình mới, đôi khi giữa các văn bản này còn nhiều điểm chồng chéo, mâu thuẫn. Bên cạnh đó, hoạt động cho thuê tài chính nói chung và hoạt động cho thuê tài chính nói riêng là những vấn đề chưa được quan tâm nghiên cứu và xem xét một cách toàn diện. Do đó, việc nghiên cứu để từng bước hoàn thiện lĩnh vực này là việc làm quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ nhận thức trên, em mạnh dạn chọn đề tài:" Một số vấn đề pháp lý trong hợp đồng cho thuê tài chính" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.

doc67 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2126 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề pháp lý trong hợp đồng cho thuê tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. "Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực hoạt động khác, thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực. Đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với những ngành mũi nhọn, đồng thời lựa chọn các công nghệ thích hợp không gây ô nhiễm và khai thác được lợi thế về lao động. Chú trọng nhập khẩu công nghệ mới, cải tiến từng bộ phận tiến tới tạo ra những công nghệ đặc thù Việt Nam. Hiện đại hoá công nghệ trong quản lý". Đây là những yêu cầu để thực hiện "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI - Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp" mà báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII tại Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra. Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng không còn phù hợp với tình hình mới, đôi khi giữa các văn bản này còn nhiều điểm chồng chéo, mâu thuẫn. Bên cạnh đó, hoạt động cho thuê tài chính nói chung và hoạt động cho thuê tài chính nói riêng là những vấn đề chưa được quan tâm nghiên cứu và xem xét một cách toàn diện. Do đó, việc nghiên cứu để từng bước hoàn thiện lĩnh vực này là việc làm quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ nhận thức trên, em mạnh dạn chọn đề tài:" Một số vấn đề pháp lý trong hợp đồng cho thuê tài chính" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu quy định pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính, cũng như thực trạng hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam trong thời gian qua, khoá luận sẽ rút ra những kết luận và kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói chung. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Khoá luận chỉ tập trung làm rõ (trên cơ sở so sánh các văn bản pháp luật) một số khía cạnh pháp lý liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính nói chung và hợp đồng cho thuê tài chính nói riêng, đồng thời nêu ra thực trạng về tình hình cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra các đề xuất, kiến nghị. 4. Phương pháp nghiên cứu. Khoá luận được hoàn thành dựa trên các nguyên tắc, phương pháp luận của triết học mác - Lênin, lý luận Nhà nước và Pháp luật trong nghiên cứu. Trong đó, Khoá luận chủ yếu vận dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để giải quyết các vấn đề đặt ra. 5. Kết cấu khoá luận. Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Khoá luận được cấu trúc bao gồm ba chương, như sau: Chương I: Khái quát về hoạt động cho thuê tài chính Chương II: Hợp đồng cho thuê tài chính Chương III: Thuê tài chính ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý. Do hạn chế về khuôn khổ khoá luận, thời lượng, nguồn tài liệu cũng như khả năng nhận thức của bản thân, chắc chắn khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH I.1. Khái niệm và đặc điểm cho thuê tài chính I.1.1. Khái niệm Hoạt động cho thuê tài sản (Lease) đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử (cách đây khoảng 4.000 năm) và được sử dụng phổ biến để đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Trong một giao dịch cho thuê, bên cho thuê chuyển quyền sử dụng tài sản cho bên thuê trong một thời gian nhất định còn bên thuê phải trả tiền thuê. Ngời ta gọi phương thức cho thuê này là cho thuê truyền thống. Trong suốt thời hạn hợp đồng, quyền sở hữu tài sản không chuyển cho bên thuê nhưng bên thuê phải chịu trách nhiệm giữ gìn tài sản đó như của chính mình. Hình thức cho thuê tài chính xuất hiện trước tiên ở Hoa Kỳ vào năm 1952 do Công ty tư nhân United Stales Corporation sáng tạo ra nhằm đáp ứng những nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp. Năm 1960, lần đầu tiên một hợp đồng cho thuê tài chính được ký tại Anh với giá 18.000 Bảng. Cũng năm này, phương thức cho thuê tài chính đã được ghi vào Luật Thương mại của Pháp dưới tên gọi "Credit Bail". Giao dịch cho thuê tài chính hình thành giữa ba bên: Bên cho thuê, bên thuê và nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị). Bên cho thuê trở thành chủ sở hữu tài sản và bên thuê thuê lại theo thời hạn thoả thuận. Cho thuê tài chính được sử dụng như một phương thức tài trợ vốn trung, đài hạn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoạt động cho thuê tài chính có thể được nhìn nhận trên hai phương diện kinh tế và pháp lý, cụ thể là: - Dưới góc độ kinh tế, cho thuê tài chính là hình thức thuê có tính chất "tiền tệ". Hình thức này được định nghĩa là nghiệp vụ cho thuê mà Công ty cho thuê lấy việc thu tiền cho thuê làm điều kiện, như bỏ tiền ra để mua các thiết bị mà xí nghiệp, Công ty cần. Là một loại vốn tiền tệ, trong thời gian vừa và dài thực hiện hình thức tiền - vật và phải hoàn trả đầy đủ2. Xét về bản chất kinh tế, cho thuê tài chính là phương thức tài trợ tín dụng trung hạn hoạc dài hạn dành cho doanh nghiệp. Bởi vì khoản tiền mà bên cho thuê bỏ ra để mua tài sản cho thuê chính là một khoản tín dụng mà bên cho thuê cấp cho bên thuê. - Dưới góc đọ pháp lý, cho thuê tài chính là biểu hiện một loại quan hệ pháp lý phát sinh từ một hợp đồng cho vay. Việc ký một hợp đồng cho thuê tài chính tương tự như việc đi vay. Ngay khi bắt đầu thời hạn thuê, bên thuê lập tức có một khoản tiền bởi họ không phải trả tiền cho tài sản thuê. Điều này cũng có nghĩa là bên thuê đã vay được một khoản tiền đủ để mua tài sản nhưng với cam kết sẽ trả khoản vay này hàng kỳ bao gồm tiền gốc và lãi vay (tiền thuê) cho người cho vay. Chính vì vậy, về mặt lưu chuyển các luồng tiền mặt, phương thức cho thuê và đi vay là giống nhau. Tron cả hai trường hợp, bên thuê đều có một khoản tiền mặt lúc ban đầu và phải trả nó về sau. Sự khác biệt của phương thức cho thuê tài chính so với phương thức vay chính là lý do lý giải sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp cho thuê tài chính trên thế giới. Ưu điểm của cho thuê tài chính thể hiện ở những lợi ích hơn hẳn phương thức vay mà nó dành cho cả bên thuê lẫn bên cho thuê như: - Đối với bên cho thuê: Bên cho thuê vẫn nắm quyền sở hữu tài sản cho thuê do vậy trong trường hợp bên thuê không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng thêu (như không trả tiền thuê, cho thuê lại tài sản thuê mà không được sự đồng ý của bên cho thuê…), thì bên cho thuê có quyền thu hồi ngay tài sản cho thuê. Mặt khác, tài sản thuê không thuộc sở hữu của bên thuê, do đó, bên cho thuê bớt rủi ro trong trường hợp bên thuê phá sản hoặc vỡ nợ vì tản sản thuê này không đưa vào bảng tài sản thanh lý của bên thuê. - Đối với bên thuê: Khi tham gia vào giao dịch cho thuê tài chính, bên thuê không nhất thiết phải có tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba cho việc thuê. Ngoài ra, trong quá trình thuê, bên thuê không phải chịu một số rằng buộc như khi áp dụng với hợp đồng vay chẳng hạn như phải kinh doanh có lãi, có phương án khả thi trong việc sử dụng vốn vay… Hiện nay, trong một số bài nghiên cứu có sử dụng thuật ngữ "Thuê mua". Theo đó, "Thuê mua" được hiểu là hình thức thuê mà mọi rủi ro do bên thuê phải gánh chịu, bên cho thuê vẫn giữ quyền sở hữu, cuối thời hạn thuê, bên thuê đợc quyền sở hữu đối với tài sản thuê. Ví dụ, "Thuê mua máy bay" là hình thức thuê máy bay mà bên thuê phải trả trước đến 15% giá trị máy bay, hàng kỳ trả tiền thuê máy bay (thường từ 10 - 12 năm đối với máy bay phản lực, 7 - 10 năm đối với máy bay cánh quạt), cuối thời hạn thuê bên thuê trả nốt tiền và nhận quyền sở hữu đối với máy bay. Như vậy, xét về bản chất "Thuê mua" cũng là một hình thức của cho thuê tài chính. Nếu trong giao dịch cho thuê tài chính, bên thuê có thể được mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng thuê và những thoả thuận này phải được các bên ghi vào hợp đồng. Còn trong giao dịch "thuê mua", việc nhận quyền sở hữu đối với tài sản thuê vào cuối thời gian thuê là quyền của bên thuê. Ở Việt Nam, khái niệm cho thuê tài chính lần đầu tiên được đề cập trong Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính ban hành theo Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 của Chính phủ (sau đây gọi là Nghị định 64). Trong một số văn bản pháp lý trước đây, còn có thêm thuật ngữ "Tín dụng thuê mua" (Thí dụ, tại Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 149/QĐ - NH 5 ngày 27/5/1995 về việc ban hành Thể lệ Tín dụng Thuê mua (sau đây gọi là Quyết định số 149). "Tín dụng thuê mua" được định nghĩa là: :hoạt động thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh được các tổ chức tín dụng mua theo yêu cầu của bên thuê". Bên thuê thanh toán tiền thuê cho tổ chức tín dụng trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền sở hữu tài sản thuê, hoặc được mua lại tài sản thuê, hay tiếp tục thuê tài sản theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thuê mua". Xétvề bản chất, tín dụng thuê mua cũng như cho thuê tài chính. Luật các Tổ chức Tín dụng được Quốc hội Khoá X, Kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997 (sau đây gọi là Luật Các Tổ chức Tín dụng) đã chính thức quy định về cho thuê tài chính tại Khoản 11 Điều 20 như sau: "cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng. Trong thời hạn thuê, các bên không được đơn phương huỷ hợp đồng". Nghị định 64 gần đây đã bị thay thế bởi Nghị định 16 của Chính phủ ngày 2/5/2001 quy định về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính (sau đây gọi là Nghị định 16). Tuy nhiên, trong bài Khoá luận này, người viết vẫn đề cập tới các của Nghị định 64 trên cơ sở so sánh với Nghị định 16. Điều 1 Nghị định 16 quy định: "1. Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. 2. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng". Như vậy, chúng ta đã thống nhất sử dụng thuật ngữ "cho thuê tài chính" trong các văn bản pháp luật như đã nói ở trên. 1.1.2. Đặc điểm Từ khái niệm "cho thuê tài chính" nêu trên, có thể ra một sốđặc điểm đặc thù của hoạt động cho thuê tải chính là: Thứ nhất: tài sản thuê và Nhà cung cấp tài sản do bên thuê lựa chọn mà không phụ thuộc vào những kỹ năng và ý kiến của bên cho thuê. Chính vì đặc điểm này mà bên cho thuê không chịu trách nhiệm về việc tài sản không được giao hoặc không giao đúng với các điều kiện cho bên thuê thoả thuận với bên cung ứng (Khoản 1 Điều 24 Nghị định 16). Thứ hai: thời hạn thuê là trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản và không thể bị huỷ ngang theo ý chí của một bên. Đặc điểm này nêu bật rõ những lợi ích mà cho thuê tài chính mang lại không chỉ riêng cho các chủ thể tham gia hợp đồng mà cho cả nền kinh tế. Thứ ba: Phần lớn những chi phí cho việc vận hành, bảo dưỡng, bảo hiểm tài sản được chuyển giao từ bên cho thuê sang bên thuê. Theo quy định tại Khoản 5, 6 Điều 26 Nghị định 16: "Bên thuê chịu mọi rủi ro về việc mất mát, hư hỏng đối với tài sản thuê và chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do việc sử dụng tài sản thuê gây ra đối với tổ chức và cá nhân khác trong quá trình sử dụng tài sản thuê. Đồng thời, bên thuê phải có nghĩa vụ bảo dưỡng, sửa chữa tài sản thuê trong thời hạn thuê. Không được tẩy xoá, làm hỏng ký hiệu sở hữu gắn trên tài sản thuê".3 Chính từ những đặc điểm nêu trên, có thể phân biệt cho thuê tài chính với phương thức thuê vận hành. Tiêu chí  Cho thuê tài chính  Thuê vận hành   Thời hạn thuê  Trung và dài hạn, chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản thuê  Thời hạn thuê ngắn   Huỷ ngang  Không được phép huỷ ngang theo ý chí của 1 bên  Được phép huỷ ngang nhưng phải thông báo trước một thời gian   Trách nhiệm bảo dưỡng, bảo hiểm  Thuộc về bên thuê  Thuộc về bên cho thuê   Chuyển quyền sở hữu  Hai bên thoả thuận khi kết thúc hợp đồng  Tài sản trở lại bên cho thuê   Trách nhiệm về rủi ro  Bên thuê phải chịu kể cả những rủi ro không phải do lỗi của mình gây ra  Bên cho thuê phải chịu, trừ trường hợp do lỗi của bên thuê gây ra   Việc một giao dịch được phân loại là cho thuê tài chính hay không phụ thuộc vào bản chất của giao dịch chứ không phụ thuộc vào loại hợp đồng. Một giao dịch được coi là cho thuê tài chính nếu nó chuyển giao gần như tất các rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu cho bên thuê. Loại thuê này thường không thể huỷ bỏ và đảm bảo cho bên cho thuê việc hoàn vốn và lợi nhuận đối với số tiền đã cho vay để dùng vào việc mua tài sản. Đồng thời, thông thường bên thuê sẽ nhận lại thiết bị khi hết hạn hợp đồng thuê sau khi trả một khoản tiền mang tính chất tượng trưng hay đã sử dụng thiết bị trong phần lớn thời gian hữu dụng. Bởi vậy, bên thuê tuy không phải chủ sở hữu về mặt pháp lý của thiết bị trong thời hạn thuê, nhưng bên thuê thực sự chịu mọi rủi ro và hướng mọi lợi ích kinh tế của quyền sở hữu. Bên cho thuê tuy là chủ sở hữu của thiết bị lại ở một vị thế tương đương với một nhà đầu tư tài chính chứ không phải là một chủ sở hữu. 1.2. Lợi ích của cho thuê tài chính. Tham giao vào một giao dịch cho thuê tài chính thường bao gồm bên cho thuê, bên thuê và nhà sản xuất hay cung ứng. Lợi ích của cho thuê tài chính đem lại cho các bên tham gia nói riêng và nền kinh tế nói chung là: 1.2.1. Đối với bên cho thuê: - Cho thuê tài chính là một phương thức tài trợ hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Vì trong suốt thời hạn thuê, quyền sở hữu tài sản luôn thuộc về bên cho thuê. Do đó, nếu có những đe doạ đối với sự an toàn của tài sản thuê (chẳng hạn bên thuê lâm vào tình trạng phá sản hoặc giải thể…), bên cho thuê hoàn toàn có khả năng thu hồi tài sản thuê ngay lập tức. Mặt khác, trong cho thuê tài chính, vốn tài trợ được thể hiện bằng hiện vật (tài sản thuê) nên không bị ảnh hưởng của lạm phát. Bên cho thuê cũng không phải chịu những rủi ro do sự giảm giá trị của tài sản do tác động của điều kiện khách quan; - Bên cho thuê có thể biết chắc rằng vốn mà họ cho vay được sử dụng đúng mục đích như trong hợp đồng, vì dưới hình thức này, bên cho thuê trực tiếp mua máy móc thiết bị từ nhà cung cấp (thường là sau khi người đi thuê đã lựa chọn) và do đó người đi thuê không có cơ hội sử dụng được tài trợ vào mục đích khác. Qua đó, bên có thuê đảm bảo được khả năng thu hồi nợ từ người đi thuê. - Cho thuê tài chính giúp bên cho thuê mở rộng diện khách hàng, đa dạng hoá việc sử dụng vốn, đồng thời mở rộng mối quan hệ kinh doanh đa phương. - Cho thuê tài chính giúp người cho thuê linh hoạt trong kinh doanh; Trong thời gian tài trợ, vốn của ngời cho thuê bỏ ra để mua máy móc tài sản cho thuê, số tiền này sẽ được thu hồi dần và cho phép người cho thuê có thể sử dụng vốn đó để tái đầu tư vào những hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lợi nhuận và giữ vững được nhịp độ hoạt động của mình. - Hồ sơ tài trợ đơn giản nên bên cho thuê có thể quyết định tài trợ nhanh. Trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê tham gia với tư cách là nhà tài trợ, cung cấp vốn để mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê nên họ không nhất thiết phải chịu trách nhiệm về các yếu tố mang tính chất kỹ thuật, nghiệp vụ. Hơn nữa, độ an toàn cho vốn đầu tư cao, nên nhìn chung thủ tục tài trợ thường đơn giản, nhanh gọn hơn so với trường hợp cho vay". 1.2.2. Đối với bên thuê. - Bên thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư. Trong quá trình kinh doanh, nhu cầu gia tăng công suất của doanh nghiệp có thể được đặt ra vào bất cứ lúc nào. Việc đáp ứng các nhu cầu này đòi hỏi phải có nguồn vốn tích luỹ. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam phổ biến là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, số doanh nghiệp có vốn đầu tư trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm khoảng 17% tổng số các doanh nghiệp. Loại doanh nghiệp có quy mô tài sản cố định từ 1 tỷ - 10 tỷ đồng chiếm 58%, phần còn lại chiếm 25% có quy mô dưới 1 tỷ đồng, những doanh nghiệp này thường gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn. Nếu di vay theo các thể thức tín dụng thông thường lại thiếu tài sản thế chấp. Thông qua cho thuê tài chính, các doanh nghiệp có thể từ tay không mà vẫn mua được máy móc, thiết bị phục vụ yêu cầu của sản xuất và sau một số năm có thể có được một số tài sản tích luỹ nhất định. Thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang có một nhu cầu rất lớn về đầu tư, từ việc đầu tư một nhà máy mới với dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh cho tới việc đổi mới riêng lẻ, từng phần các loại máy móc, phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc…có trình độ trung bình khá trở lên so với thế giới. Trong một số ngành không nhất thiết phải có ngay các công nghệ hiện đại, bởi Việt Nam có lợi thế trong các ngành có lực lượng lao động cao nhờ tận dụng nguồn nhân lực dồi dào, giá lao rộng rẻ. Ưu thế của tín dụng cho thuê tài chính có thể giải quyết tốt nhu cầu này. - Những doanh nghiệp không thoả mãn các yêu cầu vay vốn của các Tổ chức tài chính cũng có thể nhận được vốn tài trợ thông qua cho thuê tài chính. Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay những doanh nghiệp mới thành lập, chưa có uy tín với các Tổ chức tài chính thường rất khó thoả mãn các điều kiện chống rủi ro nên thường bị các tổ chức này từ chối cho vay. Trong khi đó, do đặc thù của cho thuê tài chính là bên cho thuê nắm quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản thuê và họ có thể trực tiếp kiểm soát theo dõi việc sử dụng tài sản, tình hình kinh doanh của bên thuê. Vì vậy, các Công ty cho thuê tài chính có thể sẵn sàng thoả mãn nhu cầu đầu tư của khách hàng ngay cả khi vị thế tài chính, uy tín của họ có những hạn chế. Hơn nữa, do chuyên biệt kinh doanh cho thuê tài chính các loại tài sản thiết bị nên các Công ty cho thuê tài chính thường có mạng lưới hoạt động rộng rãi, có nhiều mối quan hệ với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị), có đội ngũ cán bộ hiểu biết về thiết bị - công nghệ cao nên họ có thể cung cấp cho các doanh nghiệp các loại thiết bị đúng yêu cầu, điều này tránh rủi ro cho các doanh nghiệp so với trường hợp doanh nghiệp tự mua lấy. Đồng thời, thông qua cho thuê tài chính mà doanh nghiệp có thể thanh lý, chuyển nhượng các máy móc, công nghệ đã cũ. Dĩ nhiên, điều này phải đi đôi với việc phát triển một thị trường công nghệ cũ và mới thông qua các trung gian là các Công ty cho thuê tài chính. Cũng nhờ có chuyên môn cao về thiết bị, công nghệ nên các Công ty cho thuê có thể cải tiến, điều chuyển các loại tài sản cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng ở các khu vực thị trường khác nhau. - Cho thuê tài chính có thể giúp các doanh nghiệp đi thuê không bị đọng vốn trong tài sản cố định. Thông qua nghiệp vụ bán và cho thuê lại, các doanh nghiệp có thể chuyển nguồn tài sản cố định thành tài sản lưu động hay chuyển dịch vốn đầu tư cho các dự án kinh doanh khác có hiệu quả cao hơn trong khi vẫn duy trì được hoạt động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn được tiếp tục sử dụng. Mặt khác, nếu doanh nghiệp muốn dành vốn tích luỹ cho kinh doanh mà có nhu cầu về thiết bị và tài sản thì vẫn có thể thực hiện được thông qua mua tài sản cố định. - Cho thuê tài chính là phương thức rút ngắn thời gian triển khai đầu tư đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. So với các phương thức tăng vốn khác, cho thuê tài chính có mức độ rủi ro t
Tài liệu liên quan