1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VÙNG ĐÔNG BẮC
1.1. Điều kiện tự nhiên
Vùng Đông Bắc bao trùm các tỉnh Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên
Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang và
Quảng Ninh. Đông Bắc nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm
nhưng vì địa hình cao, cộng với đặc điểm có nhiều dãy núi hình cánh
cung mở ra ở phía Bắc, thắt lại ở Tam Đảo nên mùa đông thường có
gió Bắc thổi mạnh, trời lạnh. Mùa hè có khí hậu mát mẻ.
16 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề sinh thái học nhân văn vùng Đông Bắc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38
MỘT SỐ VẤN ĐỀ SINH THÁI HỌC NHÂN VĂN
VÙNG ĐÔNG BẮC
Nguyễn Công Thảo
Viện Dân tộc học,
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VÙNG ĐÔNG BẮC
1.1. Điều kiện tự nhiên
Vùng Đông Bắc bao trùm các tỉnh Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên
Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang và
Quảng Ninh. Đông Bắc nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm
nhưng vì địa hình cao, cộng với đặc điểm có nhiều dãy núi hình cánh
cung mở ra ở phía Bắc, thắt lại ở Tam Đảo nên mùa đông thường có
gió Bắc thổi mạnh, trời lạnh. Mùa hè có khí hậu mát mẻ.
Bảng 1. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2012
Tỉnh
Tổng diện
tích rừng
(nghìn ha)
Tỷ lệ che phủ
(%)
Diện tích
bị phá (ha)
Diện tích
rừng trồng
(nghìn ha)
Cao Bằng 339,0 50,5 2,8 0,9
Lạng Sơn 435,1 49,6 - 5,8
Bắc Kạn 367,5 70,6 10,5 13
Hà Giang 447,9 55,2 - 3,2
Tuyên Quang 405,5 64,3 20,6 15,4
Thái Nguyên 178,8 47,2 - 4,5
Phú Thọ 184,6 50,6 - 5,2
Quảng Ninh4 322,4 48,9 - 13,7
Bắc Giang 145,7 35,5 8,7 4,6
Ghi chú: (-) Số liệu không có.
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2012.
4
Theo sắp xếp trong bảng phân loại của Tổng cục Thống kê, Quảng Ninh thuộc khu
vực đồng bằng sông Hồng.
39
Các con sông lớn ở vùng Đông Bắc thuộc hệ thống sông Hồng có
sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Gâm; thuộc hệ thống sông Thái
Bình có sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam. Ngoài ra, còn có các
con sông khác như sông Bằng (Cao Bằng), sông Kỳ Cùng (Lạng
Sơn)... Vùng biển Đông Bắc là khu vực có nhiều đảo nhất Việt Nam,
chiếm đến 2/3 số lượng hải đảo của nước ta. Rừng vốn từng đóng vai
trò quan trọng trong sinh kế, đời sống văn hóa của hầu hết các tộc
người vùng Đông Bắc.
Bảng 2. Mật độ dân số và diện tích đất nông lâm nghiệp năm 2012
Tỉnh
Tổng
diện tích
(nghìn ha)
Mật độ
dân số
(người/km2)
Đất nông
nghiệp
Đất lâm
nghiệp (ha)
Cao Bằng 670,8 77 94,2 534,0
Lạng Sơn 832,1 90 568,4
Bắc Kạn 485,9 62 36,7 379,4
Hà Giang 791,5 97 156,1 561,9
Tuyên Quang 586,7 127 82,3 446,7
Thái Nguyên 353,6 327 108,1 179,6
Phú Thọ 353,5 382 98,3 178,7
Quảng Ninh 610,0 194 50,3 390,3
Bắc Giang 385,0 414 129,6 140,3
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê, 2012.
Mật độ dân số giữa các tỉnh trong vùng không đồng đều, giảm dần
ở các tỉnh vùng cao khu vực biên giới với Trung Quốc.
1.2. Dân số, dân tộc
Vùng Đông Bắc: Tỷ lệ dân tộc thiểu số chiếm 41,3% dân số toàn
vùng và 34,6% dân số dân tộc thiểu số của cả nước với hơn 20 tộc
người cùng sinh sống. Trong số này, các cư dân Tày - Nùng có số
lượng đông đảo nhất trong các cộng đồng thiểu số. Các tộc người ở
Đông Bắc thuộc các nhóm chính sau:
- Nhóm ngôn ngữ hệ Tày Thái - Ka Đai có người Tày, người
Nùng, người Thái, người Sán Chay (Cao Lan - Sán Chỉ), người Giáy,
người Bố Y, La Chí, La Ha, Cơ Lao, Pu Péo;
40
- Nhóm ngôn ngữ H’Mông - Dao có người H’Mông, người Dao,
người Pà Thẻn;
- Ngữ hệ Hán - Tạng có người Hoa, người Ngái, người Sán Dìu,
người Hà Nhì, người La Hủ, người Lô Lô, người Cống, người Phù Lá,
người Sila;
- Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường có người Kinh (Việt), người
Mường.
Trong khi các tộc người nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, Tày - Thái
và Ka Đai cư trú chủ yếu ở các huyện vùng thấp, nhóm ngôn ngữ
H’Mông - Dao và Hán - Tạng cư trú ở vùng cao. Với đại bộ phận các
tộc người thiểu số trong vùng, làng bản là đơn vị tụ cư truyền thống,
có ranh giới rõ rệt. Mỗi bản thường gồm từ vài chục đến dưới 100 hộ
gia đình, thuộc một vài dòng họ khác nhau. Sở hữu cộng đồng đối với
đất rừng vốn từng phổ biến trong xã hội cổ truyền. Vai trò của trưởng
họ, trưởng bản rất quan trọng. Việc sử dụng, quản lý, khai thác tài
nguyên thiên nhiên thường được quy định trong luật tục của từng bản.
2. ĐẶC TRƯNG SINH THÁI NHÂN VĂN CỦA MỘT SỐ TỘC NGƯỜI
VÙNG ĐÔNG BẮC
2.1. Làm ruộng
Loại hình canh tác này phổ biến ở người Tày, Nùng, Giáy, La Chí
cùng như một số tộc người khác thuộc nhóm ngôn ngữ Tày Thái - Ka
Đai vốn cư trú chủ yếu ở vùng chân thung lũng. Diện tích các cánh
đồng ở khu vực Đông Bắc dao động từ vài chục ha đến vài trăm ha.
Trừ một số vùng thung lũng tương đối lớn nằm ở vùng thấp như thung
lũng Bắc Sơn, huyện Bắc Sơn, thung lũng Thất Khê, huyện Tràng
Định (Lạng Sơn), các huyện Bắc Quang, Bắc Mê, Vị Xuyên và thị xã
Hà Giang (Hà Giang), các cánh đồng còn lại khá nhỏ, nằm rải rác dọc
theo các con suối, thường là không gian canh tác của một số thôn, bản.
Đặc trưng nổi bật của việc làm ruộng ở các dân tộc Tày, Nùng
vùng Đông Bắc là kỹ thuật làm đất rất kỹ. Trước khi cấy, đất được cày
bừa nhiều lần: cày vỡ, bừa phá, cày lại, bừa nhuyễn và bừa cấy. Cày
chìa vôi, cày Mèo (đây là cách gọi của người dân) được sử dụng khá
phổ biến. Ưu điểm của hai loại cày này là có thể dễ ràng điều chỉnh độ
nông, sâu của đường cày để phù hợp với điều kiện địa của ruộng. Ở
nhiều địa phương của Đông Bắc, từ Quảng Ninh sang đến Hà Giang,
trước đây vẫn tồn tại phương thức trâu quần. Đây là phương thức làm
ruộng theo kiểu “đao canh thủy nậu” mà nhiều bộ chính sử của Việt
41
Nam từng nhắc đến. Phương thức này có ưu điểm là người ta lợi dụng
được tối đa sức lao động của gia súc.
Giống với vùng Tây Bắc, ở Đông Bắc cũng tồn tại phổ biến hệ
thống thủy lợi được cho là có nguồn gốc bản địa Đông Nam Á: hệ
thống mương - phai và lốc cọn. Trước những năm 1990, theo ước tính,
hệ thống mương - phai đảm nhiệm việc tưới tiêu khoảng 80% diện
tích ruộng; 20% diện tích còn lại thường có mặt ruộng cao hơn nhiều
so với dòng chảy của sông suối. Để khắc phục tình trạng này, người ta
tạo ra hệ thống cọn nước (xe nước). Ở đâu không sử dụng/tận dụng
được các hệ thống này thì người ta phải canh tác theo chế độ nước
trời, chỉ gieo cấy được một vụ vào mùa mưa, theo kiểu “lạy trời mưa
xuống” (Viện Dân tộc học, 1992).
Ở một số nơi như Hoàng Su Phì (Hà Giang), một bộ phận người
Dao, H’Mông cũng trồng lúa trên các ruộng bậc thang. Hình thức
canh tác này mới xuất hiện cách đây chừng 100 năm. Diện tích ruộng
này được hình thành trên các đất nương gần nguồn nước. Người dân
phải bỏ nhiều công sức dưới hình thức đổi công giữa các hộ để san
bằng, đắp bờ, làm mương dẫn nước (Phạm Quang Hoan và Hùng Đình
Quý, 1999). Tuy nhiên, hình thức này không phổ biến ở bình diện tộc
người. Chỉ nhìn qua tập quán bón phân, có thể dễ dàng nhận thấy mối
liên hệ của nó đối với các điều kiện xã hội, hệ thống xã hội. Có thể
tóm tắt trong bảng dưới đây:
Bảng 3. Tập quán bón phân và điều kiện kinh tế - xã hội
Giai đoạn
Tập quán
bón phân
Điều kiện kinh tế - xã hội
Trước 1990 Không phổ biến,
chủ yếu là phân
hữu cơ
Các dân tộc Tày - Nùng không có điều kiện
kinh tế để mua phân bón do tỷ lệ nghèo
cao, quy mô hộ gia đình lớn, thị trường
phân bón chưa sẵn có, tập quán sản xuất
dựa vào thiên nhiên, thói quen chăn thả tự
do, chưa tiếp cận với kinh tế thị trường, sản
xuất chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của
gia đình, mạng lưới xã hội khá khép kín
Sau 1990 Phổ biến hơn, kết
hợp phân hữu cơ
và phân vô cơ
Giao thông phát triển, thị trường phân bón
sẵn có, áp dụng giống mới, hệ thống
khuyến nông phát triển, sản xuất hướng
đến thị trường, thu nhập từ hoạt động phi
nông nghiệp (buôn bán, làm thuê, cán bộ
Nhà nước...) tăng, nên có nguồn lực đầu tư
phân bón, học hỏi từ người Kinh, mạng lưới
xã hội mở rộng mang tính vùng, quốc gia...
42
Đặt trong mối tương quan với hệ thống tự nhiên như địa hình, khí
hậu, nguồn nước, đất đai và hệ thống xã hội như làng bản, dòng họ,
quy mô gia đình, có thể thấy việc làm ruộng của các tộc người ở khu
vực Đông Bắc chính là sản phẩm của quá trình thích ứng, hòa hợp
giữa hai hệ thống này. Điều đó thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, điều kiện tự nhiên không cho phép hình thành các cánh
đồng lớn và qua đó có ảnh hưởng tới quy mô dân số, phân bố dân số
trong vùng. Chính vì thế, các bản của người Tày - Nùng thường có
quy mô dân số chỉ từ vài chục hộ đến dưới một trăm hộ. Điều này
khác với quy mô làng của người Kinh hay bản của người Thái ở một
số nơi ở Tây Bắc. Thực tế này dẫn đến việc mỗi bản thường chỉ gồm
vài dòng họ chính; mỗi bản thường nằm ven suối, sông, gắn liền với
khu canh tác của bản với ranh giới khá rõ ràng. Trước những năm
1990, mật độ dân số còn ở mức chưa cao, diện tích canh tác bình quân
đầu người tương đối đủ ở hầu hết cộng đồng người Tày - Nùng.
Thứ hai, hệ thống thủy lợi của các dân tộc Tày - Nùng, hệ thống
ruộng bậc thang của nhiều tộc người vùng Đông Bắc là kết quả của
việc tận dụng các điều kiện địa hình, nguồn nước, nhằm phục vụ tưới
tiêu cho mùa vụ. Đặc điểm địa hình dốc, mật độ dân cư thưa, diện tích
các cánh đồng nhỏ là những yếu tố quan trọng không cho phép hình
thành hệ thống kênh, mương, đê lớn, liên vùng như ở đồng bằng sông
Hồng. Chính vì thế, trước những năm 1990, người dân chủ yếu trồng
1 vụ. Mặc dù vậy, hệ thống thủy lợi này có ưu điểm là tận dụng điều
kiện tự nhiên, hạn chế xói mòn đất, tạo ra sự cấu kết cộng đồng (xây
dựng và bảo vệ hệ thống thủy lợi là trách nhiệm của các thành viên
trong bản). Từ giữa những năm 1990, khi hệ thống thủy lợi được đầu
tư, diện tích đất 2 vụ mới gia tăng.
Thứ ba, các đặc điểm của nền sản xuất lúa nước trước những năm
1990 ở nhiều tộc người vùng Đông Bắc, đặc biệt là hai tộc người Tày -
Nùng phản ánh tính khá khép kín của các cộng đồng địa phương. Điều
này thể hiện qua sự phổ biến của các giống cây trồng tại chỗ, vai trò chủ
đạo của tri thức địa phương trong sản xuất, xu hướng tự cung, tự cấp.
Thứ tư, thực tiễn sản xuất ruộng phổ biến chủ yếu ở các dân tộc
Mường, Tày, Nùng, Giáy trong phạm vi khu vực Đông Bắc (trong số
các dân tộc tại chỗ) gắn liền với lịch sử cư trú của hai nhóm này. Họ
được coi là nhóm dân cư có mặt sớm trong vùng (so với nhóm
H’Mông, Dao). Chính vì thế, địa bàn cư trú của họ gắn liền với các
vùng chân thung lũng, vùng thấp, dọc theo các con sông, suối lớn.
Quá trình dịch chuyển nền sản xuất ruộng từ dựa trên kinh
nghiệm, nặng về tự cung, tự cấp, sang ứng dụng khoa học kỹ thuật,
43
hướng nhiều hơn đến thị trường, đa dạng giống, cây trồng là kết quả
của những biến chuyển từ: (i) hệ thống xã hội như cơ cấu dân cư, địa
bàn cư trú, giao lưu văn hóa tộc người; (ii) chính sách của Nhà nước;
(iii) biến đổi môi trường tự nhiên; và (iv) nhu cầu phát triển nội tại của
mỗi tộc người. Trong số các tộc người thiểu số ở vùng Đông Bắc, 4
quá trình này diễn ra mạnh nhất ở người Mường, Tày, Nùng và điều
đó lý giải nền sản xuất ruộng của họ đã chuyển biến theo hướng
chuyên canh, thâm canh, tiệm cận năng suất của người Kinh. Các cánh
đồng thung lũng ở thị xã Hà Giang, huyện Bắc Quang, Vị Xuyên (tỉnh
Hà Giang) hay các huyện Tràng Định, Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) có thể
coi là những ví dụ tiêu biểu.
2.2. Nương rẫy
Nương rẫy là loại hình canh tác phổ biến và chính ở người Phù Lá,
Lô Lô, Pu Péo, Sán Dìu và đặc biệt là người Dao, H’Mông ở các tỉnh
Đông Bắc nói riêng, ở nước ta nói chung. Các cây trồng chính trên
nương bao gồm: lúa, ngô, khoai, sắn, đậu (khoảng 20 năm trở lại đây,
diện tích một số cây công nghiệp như chè tăng nhanh do nhu cầu thị
trường). Về cơ bản, người dân chỉ trồng được 1 vụ/năm do phụ thuộc
việc tưới tiêu vào nước mưa. Nhìn chung, việc bón phân, phun thuốc
trước đây hầu như không phổ biến. Các giống cây trồng mang tính địa
phương, do người dân tự bảo quản, lưu giữ. Năng suất lúa nương vì thế
khá thấp, dưới 10 tạ/ha. Thời điểm phát nương, gieo trồng thường bắt
đầu từ tháng 2-3, thời điểm đầu xuân, thời tiết mát mẻ. Đây cũng là lựa
chọn để cây trồng được tưới kịp thời khi mùa mưa đến.
Trong quy trình làm nương, thao tác chọn đất để phát nương được
đặc biệt quan trọng và việc này thường do những bậc cao niên, có
kinh nghiệm lâu năm đảm nhiệm. Điều này khẳng định vai trò của
người cao tuổi và kinh nghiệm sản xuất truyền thống trong xã hội
người Dao, H’Mông cũng như của một số tộc người khác trước đây.
Đất nương rẫy thường là đất đồi, rừng gắn với quyền khai thác, sử
dụng của một bản cụ thể. Việc làm nương rẫy trên đất thuộc phạm vi
quản lý của bản khác bị nghiêm cấm. Tập quán này bị chi phối bởi đặc
điểm tụ cư trước đây khi mỗi bản thường có ranh giới xác định, gắn
với các khu đồi, rừng cụ thể.
Ngoài nương đất, nương bãi bằng còn có một loại nương khá độc
đáo, mang tính bản sắc riêng của người H’Mông ở Hà Giang, đó là
nương thổ canh hốc đá. Đây là kỹ thuật canh tác truyền thống sáng
tạo, mang tính thích ứng cao với điều kiện địa hình ở những nơi có đá
nhiều hơn đất. Tại cao nguyên đá Đồng Văn vào mùa xuân khi tiết trời
ấm áp, người dân dẫy cỏ, xếp đá làm hàng rào những khu đất nhỏ trên
44
núi đá để gieo trồng. Họ cũng gùi đất đổ vào các hốc đá tự nhiên, tạo
nên mặt bằng canh tác để tra hạt ngô, hạt bí hay đậu cô ve xuống rồi
chờ những cơn mưa chúng sẽ nảy mầm. Đây là công việc đòi hỏi
nhiều sức lực, nên các hộ gia đình thường tiến hành đổi công, phổ
biến là các gia đình trong một dòng họ. Hình thức canh tác này rất phổ
biến ở 4 huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang là Quản Bạ, Yên
Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc. Đây là khu vực có địa hình núi cao, hiểm
trở, khan hiếm đất sản xuất, nguồn nước. Nhìn vào nương rẫy của các
tộc người vùng Đông Bắc, đặc biệt là của người Dao và người
H’Mông từ những năm 1990 trở về trước, có thể đưa ra một số nhận
xét sau:
- Đây là phương thức canh tác không đem lại năng suất cao,
khó có thể đảm bảo an ninh lương thực cho hộ gia đình khi mật độ dân
số gia tăng nếu không có các nguồn thu nhập khác;
- Sự lệ thuộc vào nương rẫy lý giải cho quy mô làng bản của 2
tộc người này nhỏ hơn nhiều so với các dân tộc Tày - Nùng. Mỗi bản
thường chỉ có 1-2 dòng họ;
- Phương thức canh tác ảnh hưởng đến tính khá biệt lập của địa
bàn cư trú, dẫn đến khả năng, cơ hội liên kết vào mạng lưới xã hội,
thương mại rộng hơn ở hai tộc người này không mạnh như các tộc
người ở vùng thấp;
- Tính bấp bênh, không ổn định của năng suất nương rẫy khiến
an ninh lương thực luôn là một thách thức đối với nhiều tộc người, đặc
biệt là người Dao và H’Mông;
- Diện tích mỗi mảnh nương nhiều khi rộng đến hàng hecta, điều
đó dẫn đến nhu cầu đổi công giữa các hộ gia đình trong bản, trong
dòng họ mỗi dịp phát nương, làm đất, trồng trọt hay thu hoạch. Chính
vì thế, liên kết xã hội giữa các thành viên trong 1 bản khá chặt chẽ.
Kể từ giữa những năm 1990 đến nay, bên cạnh cây lương thực,
một số loại cây công nghiệp đã được người H’Mông, Dao trồng trên
diện rộng, phục vụ mục đích thương mại: thảo quả, hồi, cao su, chè,
thuốc lá; một số loại cây ăn quả có giá trị cao: quýt, cam, chanh, lê,
mận; một số giống cây lương thực mới được Chính phủ hỗ trợ: ngô,
sắn. Ở các tỉnh Đông Bắc, đã hình thành một số vùng chuyên canh
trồng các loại cây thương mại ở phạm vi lớn như: Tràng Định (cây lê),
Bắc Sơn, Bình Gia (quýt) (Lạng Sơn), Vị Xuyên, Bắc Quang (chanh,
cam) (Hà Giang), Sơn Dương, Tuyên Quang (cây sa nhân), Yên Thế,
Bắc Giang (cây sưa đỏ), Thạch An, Cao Bằng (cây chè đắng)...
Các nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình này trước tiên bắt
nguồn từ: (i) chính sách của Nhà nước: Luật Đất đai giao đất tới hộ
45
gia đình, xác nhận quyền sử dụng và bảo vệ đối với đất rừng, đất đồi
tới các hộ gia đình; (ii) chính sách khuyến nông: hỗ trợ giống, kỹ
thuật, phân bón; (iii) sự phát triển của hệ thống giao thông giúp cho
việc đi lại, thông thương hàng hóa, kết nối giữa vùng cao với miền
xuôi; (iv) sự phát triển của kinh tế thị trường: giúp nông sản có đầu ra,
kết nối người nông dân với doanh nghiệp, người tiêu thụ, thị trường
trong và ngoài nước; (v) giao lưu văn hóa giữa các tộc người: ảnh
hưởng của người Kinh ngày càng rõ rệt trong phương thức sản xuất,
kỹ thuật canh tác và kinh nghiệm tiếp cận thị trường.
Quá trình chuyển biến từ nền sản xuất lương thực phục vụ tiêu
dùng sang hướng đến thị trường rõ rệt hơn của hoạt động sản xuất
nương rẫy đã có tác động đến quá trình biến đổi các hệ thống xã hội ở
nhiều tộc người trong đó có người Dao và H’Mông. Từ du canh, du cư,
họ đã chuyển sang định canh, định cư, từ cư trú khá biệt lập, nhỏ lẻ đến
cư trú tập trung, gắn kết hơn với các tộc người khác. Sản xuất nương
rẫy không còn là hoạt động mang tính “cầu may”, trông chờ vào tự
nhiên mà đã chuyển thành hoạt động mang tính thương mại, người dân
chủ động đầu tư (phân bón, giống, kỹ thuật) hơn cho mùa vụ của mình.
Thế hệ trẻ với kiến thức mới đã dần dần thay thế vai trò kinh nghiệm
truyền thống của người già trong sản xuất nương rẫy nói riêng, sản xuất
nông nghiệp nói chung (Lý Hành Sơn, 1993; Sở Văn hóa Thông tin Hà
Giang, 1994; Phạm Quang Hoan và Hùng Đình Quý, 1999).
Việc áp dụng kỹ thuật sản xuất mới cũng giúp giảm tải lao động
chân tay (ví dụ như dùng thuốc diệt cỏ) và cùng với tác động từ hoạt
động truyền thông về kế hoạch hóa gia đình, quy mô gia đình ở nhiều
tộc người, đặc biệt là người Dao và H’Mông đã giảm đi đáng kể. Hiện
nay, đa phần các hộ gia đình chỉ có 2 con, rất ít hộ gia đình có trên 4
con như trước đây. Sự chuyển biến này giúp chất lượng dân số tốt hơn,
trẻ em được chăm sóc đầy đủ hơn, có điều kiện đi học, nâng cao trình
độ dân trí. Quá trình này cùng với xu thế cộng cư khiến xu thế hôn
nhân liên tộc người ngày càng trở nên phổ biến, thay thế hình thức hôn
nhân nội tộc trước đây. Điều này dẫn đến cấu trúc làng bản của người
Dao, H’Mông thay đổi, mở hơn, có thể bao gồm nhiều tộc người khác
cùng chung sống. Xu thế này thúc đẩy việc chia sẻ kinh nghiệm sản
xuất giữa các tộc người, giúp người dân đa dạng hóa sinh kế cũng như
các phương thức mưu sinh, thiết lập mạng lưới trao đổi với nhiều tộc
người khác và qua đó mở rộng mạng lưới xã hội của mình.
Bên cạnh đó, sự phát triển trên diện rộng các loại cây công
nghiệp, cây ăn quả, việc sử dụng tràn lan phân bón, thuốc hóa học
cũng có tác động tiêu cực đối với môi trường cũng như sức khỏe của
người dân ở một số địa phương (Nguyễn Công Thảo và Phạm Thị
46
Cẩm Vân, 2013). Hiện tượng phá rừng lấy đất trồng sắn, hồi, chè vẫn
diễn ra ở một số địa phương các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn.
Rất tiếc, những vấn đề này lại chưa được nghiên cứu, dự báo, khuyến
nghị một cách thỏa đáng.
Có thể đưa ra một cách nhìn so sánh giữa hai hệ thống: hệ sinh
thái và hệ thống xã hội ở 2 tộc người Dao và H’Mông ở hai tỉnh Hà
Giang và Lạng Sơn thông qua việc nhìn vào sản xuất nương rẫy có
những khác biệt (Bảng 4).
Bảng 4. Hệ sinh thái và hệ thống xã hội của 2 dân tộc Dao, H’Mông
nhìn qua nương rẫy
Giai
đoạn Hệ sinh thái Hệ thống xã hội
Trước
1990
Rừng tự nhiên còn nhiều, sở
hữu cộng đồng phổ biến;
nương rẫy là đất rừng được
người dân phát quang, làm
du canh; luân canh; đa dạng
sinh học còn tương đối nên
cây trồng chính trên nương
chỉ là cây lương thực; tính tự
cung tự cấp nổi trội; giống địa
phương do người dân tự bảo
quản. Kỹ thuật sản xuất dựa
trên kinh nghiệm, phụ thuộc
nhiều vào điều kiện tự nhiên
Quy mô hộ gia đình khá lớn; tập quán
du cư còn phổ biến ở nhiều nơi; tính
cố định của bản Dao, H’Mông vì thế
không chặt như ở các tộc người Tày,
Nùng, Mường. Hai tộc người này
cũng cư trú khá biệt lập; quan hệ trao
đổi, giao lưu, làm ăn với các tộc người
ở vùng thấp đặc biệt là người Kinh
chưa mạnh; gia đình, dòng họ đóng
vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ
lao động khi mùa vụ. Phân tầng xã
hội trong nội bộ tộc người chưa rõ rệt
Sau 1990 Diện tích rừng tự nhiên bị suy
giảm nhanh chóng; đất rừng
được giao cho từng bản hoặc
từng hộ gia đình quản lý
Giao thông phát triển, thị trường
phân bón sẵn có, áp dụng giống mới,
hệ thống khuyến nông phát triển, sản
xuất hướng đến thị trường, thu nhập
từ hoạt động phi nông nghiệp (buôn
bán, làm thuê, cán bộ Nhà nước...)
tăng nên có nguồn lực đầu tư phân
bón, học hỏi từ người Kinh, mạng lưới
xã hội mở rộng mang tính vùng,
quốc gia...
2.3. Vườn