Qua thời gian thực tập tại Công ty cổ phần dây và cáp điện Minh Tâm, em đã cố gắng tìm hiểu hoạt động tài chính kế toán của Công ty, đặc biệt là các hoạt động trong quá trình tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Em xin được trình bày một số ý kiến như sau:
18 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1493 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần dây và cáp điện Minh Tâm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Qua thời gian thực tập tại Công ty cổ phần dây và cáp điện Minh Tâm, em đã cố gắng tìm hiểu hoạt động tài chính kế toán của Công ty, đặc biệt là các hoạt động trong quá trình tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Em xin được trình bày một số ý kiến như sau:
NHẬN XÉT VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN DÂY VÀ CÁP ĐIỆN MINH TÂM:
Sau 28 năm hoạt động và phát triển, đặc biệt là khi chuyển đổi nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đến nay, Công ty đã có một quy mô sản xuất kinh doanh mở rộng và trình độ quản lý được nâng cao, phù hợp với tình hình hiện tại của Đất nước. Đạt được kết quả như vậy là cả một quá trình phấn đấu liên tục không ngừng của Ban giám đốc, lãnh đạo các phòng ban và toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty. Với nỗ lực của mình, Công ty đã cố gắng hòa nhập bước đi của mình vào nhịp điệu phát triển chung của nền kinh tế Đất nước.
Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, sự linh hoạt, nhạy bén trong công tác quản lý kinh tế, quản lý sản xuất đã thật sự trở thành đòn bẩy tích cực cho việc phát triển của Công ty. Kết hợp giữa việc vận dụng sáng tạo các quy luật kinh tế thị trường với đổi mới dây chuyền, quy mô sản xuất, Công ty đã đạt được nhiều thành tích trong sản xuất kinh doanh, không ngừng nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên.
VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY KẾ TOÁN:
Bộ máy kế toán của Công ty đã và đang hoạt động có hiệu quả, đảm bảo chức năng cung cấp thông tin cần thiết cho Ban giám đốc và các bộ phận liên quan. Bộ máy kế toán được tổ chức gọn nhẹ, hợp lý và phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản lý của Công ty.
Công tác hạch toán tại Công ty được thực hiện chính xác, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phần hành kế toán, tránh được tình trạng chồng chéo dễ dẫn đến nhầm lẫn và sai sót. Hầu hết nhân viên phòng kế toán có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm thực tế lâu năm, có tinh thần nhiệt tình trong công việc.
Hiện Công ty áp dụng hình thức tổ chức kế toán tập trung. Hình thức này sẽ tạo điều kiện để kiểm tra, chỉ đạo nghiệp vụ, đảm bảo sự lãnh đạo tập trung thống nhất của kế toán trưởng, cũng như sự chỉ đạo kịp thời của ban lãnh đạo Công ty đối với toàn bộ hoạt động kinh doanh và công tác kế toán của Công ty.
Đồng thời, hình thức kế toán tập trung đã tạo điều kiện cho việc phân công, chuyên môn hoá công việc đối với các bộ phận kế toán cũng như việc trang bị phương tiện, kỹ thuật tính toán, xử lý thông tin kế toán.
Với tổ chức bộ máy kế toán như hiện nay, công tác kế toán nói chung và công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng tại Công ty là tương đối hoàn chỉnh.
VỀ TỔ CHỨC SỔ KẾ TOÁN:
Công ty đang sử dụng hình thức sổ kế toán “Nhật ký chung” là hình thức sổ đơn giản, dễ làm, đảm bảo chứng từ sổ sách được cập nhật khi nghiệp vụ kế toán phát sinh và cung cấp thông tin kịp thời theo yêu cầu của quản lý.
Đồng thời, Công ty đã trang bị hệ thống máy tính hiện đại cùng với các chương trình xử lý thông tin trên máy đã giúp đơn giản hóa công việc kế toán và đem lại hiệu quả đáng kể trong công tác quản lý. Kế toán máy giúp giảm một khối lượng lớn công việc kế toán, các nghiệp vụ chỉ nhập định khoản một lần vào máy, máy sẽ tự chuyển đi các sổ mà không cần ghi chép nhiều lần như kế toán thủ công, số liệu được lưu trữ và xử lý kịp thời, chính xác. Thực hiện kế toán trên máy giúp cho việc liên hệ thông tin giữa các phần hành kế toán trong quá trình kiểm tra nội bộ và lập báo cáo đạt hiệu quả hơn.
VỀ TỔ CHỨC HỆ THỐNG CHỨNG TỪ VÀ TÀI KHOẢN KẾ TOÁN:
Nhìn chung, hệ thống chứng từ tại Công ty được tổ chức đầy đủ và hợp lý, căn cứ trên các quy định của chế độ chứng từ kế toán do Bộ tài chính ban hành và đặc điểm kinh doanh của Công ty. Trình tự luân chuyển các loại chứng từ tại Công ty được xây dựng một cách hợp lý, nhịp nhàng, đảm bảo nguyên tắc nhanh chóng, kịp thời và không ảnh hưởng đến các bộ phận khác.
Công ty đã tuân thủ đúng hệ thống tài khoản theo chế độ kế toán Việt Nam. Hệ thống tài khoản của Công ty không nhiều, những tài khoản chi tiết còn đơn giản nhưng cũng phản ánh được tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
VỀ PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN:
Hiện nay, Công ty đang áp dụng phương pháp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên là hợp lý vì có một số ưu điểm sau:
Sản phẩm của Công ty đa dạng và thường cung ứng với số lượng lớn. Do đó, việc nhập xuất các loại nguyên vật liệu diễn ra thường xuyên, liên tục đòi hỏi việc thu thập, cung cấp thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh phải được cập nhật liên tục, theo sát tình hình thực tế. Phương pháp kê khai thường xuyên theo dõi và kiểm tra từng nghiệp vụ nhập xuất sẽ cung cấp thông tin một cách nhanh chóng, chính xác cho các nhà quản lý về tình hình sản xuất của từng loại sản phẩm.
Việc theo dõi thường xuyên từng lần nhập – xuất giúp Công ty quản lý chặt chẽ vật liệu để có kế hoạch cung cấp nguồn đầu vào hợp lý, đảm bảo quá trình sản xuất không bị gián đoạn, vật tư được cung ứng với mức độ phù hợp. Đồng thời, khi đối chiếu số liệu kế toán với kết quả kiểm kê ở một thời điểm nào đó, Công ty sẽ xác định được tình hình thừa thiếu vật liệu.
Giá trị nguyên vật liệu thiếu khi kiểm kê sẽ được xử lý đúng nguyên nhân, không bị tính gộp vào chi phí sản xuất sản phẩm (như phương pháp kiểm kê định kỳ, nguyên vật liệu thiếu có thể tính nhập vào chi phí sản xuất vì kế toán không theo dõi từng lần nhập xuất mà chỉ lấy số liệu dư đầu kỳ, mua trong kỳ, dư cuối kỳ).
NHẬN XÉT VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN DÂY CÁP ĐIỆN MINH TÂM:
Nhìn chung, việc tổ chức công tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Công ty tương đối chặt chẽ, phù hợp với điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty và chế độ kế toán hiện hành. Công ty đã đánh giá đúng đắn tầm quan trọng của công tác kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành được thực hiện theo định kỳ hàng tháng đã cung cấp thông tin kịp thời cho ban lãnh đạo Công ty. Nhờ đó, ban lãnh đạo Công ty có thể nắm rõ tình hình biến động của các khoản chi phí trong giá thành sản phẩm, có biện pháp quản lý thích hợp để giảm chi phí, giảm giá thành và tăng lợi nhuận cho Công ty. Song song đó, hệ thống kế toán của Công ty đã hoạt động hiệu quả, quá trình hạch toán hạn chế tối đa việc ghi chép trùng lặp.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, Công ty còn bộc lộ một số vấn đề tồn tại trong quá trình sản xuất cũng như quản lý chi phí, cần có những giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm tại Công ty.
ƯU ĐIỂM:
Về đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm:
- Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính toán giá thành tại Công ty hiện nay là từng loại sản phẩm. Công ty đã xác định đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành phù hợp với đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất và đáp ứng được yêu cầu quản lý chi phí tại Công ty. Việc tập hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách đúng đắn và hợp lý đã phục vụ cho việc tính giá thành tại Công ty được chính xác hơn.
Về hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
- Công ty đã xây dựng hệ thống định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho từng loại sản phẩm. Điều này giúp Công ty có thể theo dõi, quản lý vật tư chặt chẽ, tránh lãng phí, đồng thời tính toán được mức chi phí nguyên vật liệu hợp lý, sát với tình hình thực tế. Vì vậy, nếu có sự chênh lệch quá lớn giữa định mức và thực tế về nguyên vật liệu, Công ty có thể dễ dàng xác định được nguyên nhân và tìm biện pháp xử lý thích hợp.
- Việc xây dựng định mức tiêu hao nguyên vật liệu tại Công ty là hoàn toàn hợp lý, đó là cơ sở cho việc sử dụng hiệu quả cũng như quản lý chặt chẽ vật tư trong Công ty. Công ty cần duy trì và phát huy hệ thống định mức này hơn nữa bằng cách luôn kiểm tra, đối chiếu, so sánh giữa chi phí định mức và thực tế phát sinh, thường xuyên có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế, nhanh chóng phát hiện dấu hiệu lãng phí và có biện pháp xử lý thích hợp nếu chi phí thực tế phát sinh vượt quá mức cho phép.
Về hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
- Tại Công ty hiện nay thì ngoài khoản lương chính, công nhân sản xuất còn được hưởng các khoản phụ cấp, tiền thưởng, tiền làm thêm giờ... góp phần cải thiện đời sống của công nhân, tạo tâm lý thoải mái và tích cực trong sản xuất.
- Để nâng cao hơn nữa tinh thần làm việc của công nhân, Công ty có thể tạo không khí thoải mái trong phân xưởng bằng cách phát tin tức, âm nhạc cho công nhân nghe vào đầu giờ làm việc hoặc giờ nghỉ ca. Vào dịp cuối tuần hoặc những ngày lễ, Công ty nên tổ chức các cuộc thi như hát karaoke, cắm hoa, nấu ăn... không chỉ giúp công nhân có nơi vui chơi, giải trí lành mạnh trong những ngày nghỉ mà còn giúp anh chị em công nhân có cơ hội gần gũi và đoàn kết với nhau hơn.
Về hạch toán chi phí sản xuất chung:
- Chi phí sản xuất chung ở Công ty phát sinh nhiều, tuy nhiên, chi phí này được hạch toán tương đối đúng và đầy đủ các khoản mục (chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu, chi phí công cụ dụng cụ, chi phí khấu hao, chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác).
Về công tác tính giá thành sản phẩm:
- Căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ, bên cạnh việc xác định đúng đối tượng tính giá thành, kế toán đã xác định phương pháp tính giá thành là phương pháp giản đơn. Sử dụng phương pháp này giúp công tác tính giá thành đơn giản hơn, công việc tính toán của kế toán sẽ nhẹ nhàng hơn, tránh được những sai sót không đáng có do nhầm lẫn trong tính toán, quan trọng hơn là sự phù hợp đối với Công ty khi chu kỳ sản xuất ngắn, khối lượng sản phẩm sản xuất nhiều.
- Công ty sử dụng bảng tính giá thành sản phẩm vừa tập hợp chi phí vừa tính giá thành. Kỳø tính giá thành là hàng tháng không những thuận tiện mà còn có mục đích cung cấp thông tin một cách đầy đủ, kịp thời phục vụ cho yêu cầu quản trị.
KHUYẾT ĐIỂM:
Về hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
- Công ty áp dụng phương pháp tính giá bình quân gia quyền một lần vào cuối kỳ để tính trị giá vật liệu xuất kho, kể cả nguyên vật liệu dự trữ. Trong điều kiện giá nguyên vật liệu chính của Công ty thường xuyên tăng giảm đột ngột với mức độ biến động khá mạnh, việc tính giá xuất kho nguyên vật liệu theo phương pháp bình quân gia quyền một lần vào cuối kỳ không phản ánh chính xác được giá nguyên vật liệu, dẫn đến giá thành sản xuất trong kỳ không được phản ánh đúng.
- Vì áp dụng phương pháp tính giá bình quân gia quyền một lần vào cuối kỳ nên việc tính tổng giá trị nguyên vật liệu xuất kho được thực hiện vào cuối tháng khi tổng hợp được số lượng và giá trị nguyên vật liệu tồn đầu kỳ, nhập trong kỳ. Còn hàng ngày, kế toán chỉ theo dõi vật liệu xuất kho về mặt số lượng, không theo dõi chỉ tiêu giá trị. Do đó, không thấy được sự biến động về giá trị của vật liệu xuất kho trong từng khoản thời gian nhất định để điều chỉnh thích hợp. Hơn nữa, với số lượng nguyên vật liệu nhiều, khối lượng công việc kế toán thường dồn nhiều vào cuối tháng và kéo dài qua đến tháng sau mới hạch toán xong chi phí nguyên vật liệu cho các sản phẩm, lúc này thông tin về chi phí nguyên vật liệu mới được cung cấp.
Về hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
- Theo Nghị định 127 của Chính phủ ban hành ngày 12/12/2008, từ ngày 01/01/2009, người lao động và các doanh nghiệp phải bắt đầu đóng bảo hiểm thất nghiệp. Đây là chính sách mới có tác động trực tiếp đến người lao động, người sử dụng lao động và vấn đề an sinh xã hội, nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị thất nghiệp. Tuy nhiên, trong tháng 1/2009, Công ty đã không thực hiện trích bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Điều này không những là sai quy định mà quyền lợi của người lao động trong Công ty cũng không được quan tâm thích đáng.
- Hiện nay, Công ty không thực hiện trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất. Lực lượng sản xuất của Công ty chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng số công nhân viên toàn Công ty, do đó có thể phát sinh những đợt nghỉ phép hàng loạt. Như vậy, nếu tháng nào mà nghỉ phép nhiều thì việc không trích trước này sẽ làm chi phí nhân công của tháng đó tăng lên, làm tăng giá thành sản phẩm và không ổn định giữa các kỳ hạch toán.
- Về các khoản phải trả cho công nhân viên, hiện tại Công ty không thành lập quỹ lương. Trong trường hợp kinh doanh thua lỗ hoặc ngừng sản xuất thì các khoản phải thanh toán với công nhân viên được trích từ nguồn vốn kinh doanh để thanh toán, do vậy đã làm ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của Công ty.
Về hạch toán chi phí sản xuất chung:
- Hiện nay, Công ty vẫn chưa xây dựng định mức cho các khoản chi phí sản xuất chung. Do đó chưa có sự theo dõi và quản lý chặt chẽ các khoản chi phí phát sinh trong phân xưởng.
- Việc tính khấu hao tài sản cố định tại Công ty theo phương pháp đường thẳng là chưa hợp lý, đặc biệt là đối với những tài sản cố định phục vụ cho sản xuất.
Vì thời gian tính khấu hao tài sản cố định đã được quy định nhưng trong thời gian đó, đôi khi Công ty phải dùng để vận hành thử, chưa thực sự đưa vào sản xuất; hoặc có thể do những nguyên nhân khách quan như nhu cầu thị trường về sản phẩm giảm, thiếu nguyên vật liệu để sản xuất… khi đó, máy móc chỉ chạy một phần công suất, sản lượng sản xuất giảm nhưng mức trích khấu hao không giảm theo. Chính vì vậy, chi phí khấu hao cho một đơn vị sản phẩm tăng, đẩy giá thành sản phẩm lên, làm giảm khả năng cạnh tranh về mặt giá cả của sản phẩm trên thị trường.
Ngược lại, trong trường hợp sản xuất khối lượng lớn, máy móc phải hoạt động với công suất tối đa nhưng mức khấu hao không tăng theo. Điều đó làm cho chi phí không được hạch toán đầy đủ, cụ thể là thấp hơn chi phí thực tế phát sinh.
- Đối với việc sửa chữa lớn tài sản cố định tại Công ty, kế toán tiến hành tập hợp trực tiếp chi phí này vào tài khoản 627 theo định khoản sau:
Nợ TK 627 – Tập hợp chi phí sửa chữa tài sản cố định.
Có TK 111 – Chi phí sửa chữa tài sản cố định phát sinh.
Sau khi tập hợp xong, cùng với các khoản chi phí khác thuộc chi phí sản xuất chung, kế toán tiến hành phân bổ cho từng loại sản phẩm hoàn thành. Việc tập hợp và phân bổ như trên sẽ làm cho giá thành sản phẩm trong kỳ có phát sinh sửa chữa tài sản cố định tăng cao đột ngột.
- Chi phí trong giá thành sản phẩm của Công ty còn bao gồm tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại… của bộ phận quản lý và bán hàng. Trong quá trình hạch toán chi phí sản xuất chung, Công ty không tách riêng những khoản chi phí trên theo từng bộ phận sử dụng mà hạch toán chung vào tài khoản 627. Việc hạch toán như vậy gây sai lệch trong việc tính giá thành, cụ thể là làm giá thành sản phẩm cao hơn so với thực tế phát sinh.
Về hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất:
- Hiện nay, Công ty chưa có biện pháp cụ thể đối với những sản phẩm hỏng. Mặc dù cho đến nay, thiệt hại về sản phẩm hỏng là không đáng kể nhưng Công ty cũng nên có biện pháp hạch toán cụ thể để khi có sự cố xảy ra thì cũng có cách xử lý đảm bảo được hiệu quả về mặt kinh tế cho Công ty.
- Đồng thời, hiện nay Công ty cũng không theo dõi các khoản thiệt hại do ngừng sản xuất, điều này dẫn đến một số hạn chế trong việc quản lý chi phí và quản lý lao động. Do không theo dõi những khoản chi phí trên nên Công ty không thể thu hồi khoản bồi thường thiệt hại. Và quan trọng hơn, vì không quy trách nhiệm cụ thể cho cá nhân, bộ phận gây ra thiệt hại nên không giáo dục được ý thức cẩn trọng trong lao động của công nhân, có thể dẫn tới những sai phạm tiếp theo.
Về công tác kế toán quản trị:
- Mỗi doanh nghiệp, ngoài các thông tin kế toán phục vụ cho việc phản ánh mối quan hệ với đối tượng bên ngoài, còn phải có các thông tin kế toán phục vụ cho việc phản ánh các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp.
Ở Công ty, các thông tin về kế toán, đặc biệt là kế toán chi phí chưa phản ánh được điều này. Nhìn chung công tác kế toán quản trị chưa được Công ty thực sự quan tâm. Việc phân tích cụ thể chi phí theo khoản mục và theo yếu tố chưa được thực hiện. Công tác kế toán mới chỉ thiên về kế toán tài chính (tính toán và tập hợp số liệu vào các bảng biểu, báo cáo theo quy định để sử dụng với các chủ thể bên ngoài Công ty) chứ chưa coi trọng việc lập báo cáo mang tính chất nội bộ, sử dụng trong Công ty.
MỘT SỐ Ý KIẾN GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN DÂY VÀ CÁP ĐIỆN MINH TÂM:
Công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác kế toán và tổ chức sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh tình hình sản xuất chính xác, kịp thời và là cơ sở cho nhà quản trị ra quyết định về giá sản phẩm, về chiến lược cạnh tranh trên thị trường... Với vai trò quan trọng như vậy, việc không ngừng hoàn thiện công tác này là hết sức cần thiết. Nó phản ánh khá rõ nét về sự cố gắng tiếp thu của Công ty, sự vươn lên trong quá trình hoàn thiện và phát triển. Đồng thời, sẽ góp phần không nhỏ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Công tác kế toán tại Công ty tuy có những ưu điểm lớn nhưng vẫn còn nhiều điểm tồn tại chưa hợp lý, nếu khắc phục được sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho Công ty. Sau khi tìm