Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam sau sáp nhập giai đoạn 2005- 2017

Trên thế giới, hoạt động mua bán sáp nhập (M&A) các ngân hàng thương mại (NHTM) là xu hướng phổ biến nhằm cải tổ hệ thống NHTM, tăng cường tính cạnh tranh và khai thác các lợi thế kinh tế. Trong bài viết này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp đo lường mức độ tập trung thông qua chỉ số CRk và HHI của 35 NHTM Việt Nam giai đoạn 2005- 2017 nhằm đưa ra đánh giá về cấu trúc thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng

pdf14 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 602 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam sau sáp nhập giai đoạn 2005- 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 207- Tháng 8. 2019 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam sau sáp nhập giai đoạn 2005- 2017 Lương Minh Hà Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Tô Phương Ngọc Sinh viên K19CLC-TC.A Nguyễn Thị Minh Tâm Sinh viên K19CLC-TC.A Nguyễn Bích Ngọc Sinh viên K19CLC-TC.A Lê Vũ Thu Trang Sinh viên K19CLC-TC.A Ngày nhận: 13/05/2019 Ngày nhận bản sửa: 23/05/2019 Ngày duyệt đăng: 17/06/2019 Trên thế giới, hoạt động mua bán sáp nhập (M&A) các ngân hàng thương mại (NHTM) là xu hướng phổ biến nhằm cải tổ hệ thống NHTM, tăng cường tính cạnh tranh và khai thác các lợi thế kinh tế. Trong bài viết này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp đo lường mức độ tập trung thông qua chỉ số CRk và HHI của 35 NHTM Việt Nam giai đoạn 2005- 2017 nhằm đưa ra đánh giá về cấu trúc thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng The competition level among Vietnamese commercial banks after M&A in the period of 2005- 2017 Abstract: Four years after completing Project 254 “Restructuring the system of credit institutions in the period of 2011 - 2015”, the banking sector of Vietnam has changed remarkably through a series of mergers and acquisitions (M&A). However, the change in the number of Vietnamese commercial banks also impacted on the competitiveness in the banking sector, so the access of commercial banks’ performances in the post- merger period is extremely important. The objective of the article is to analyze the competitive situation of Vietnamese commercial banks before and after the merger, thereby seeing the level of competition in the banking industry decrease after mergers through analyzing two indicators HHI and CRk. Keywords: M&A, Vietnamese banks, economic concentration. Ha Minh Luong, M.Ec. Email: halm@hvnh.edu.vn Ngoc Phuong To, Student of K19 Advanced Program Email: tophuongngoc6a14gv@gmail.com Ngoc Bich Nguyen, Student of K19 Advanced Program Email: ngocnb.025@gmail.com Tam Thi Minh Nguyen, Student of K19 Advanced Program Email: minhtam31198@gmail.com Trang Vu Thu Le, Student of K19 Advanced Program Email: trangism216@gmail.com Organization of all: Finance faculty, Banking Academy of Vietnam Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 35 dưới tác động của M&A. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra chỉ số tập trung kinh tế HHI có xu hướng tăng sau mỗi thương vụ sáp nhập ngân hàng, thể hiện tính cạnh tranh giảm do M&A. Tuy nhiên, mức độ cạnh tranh vẫn ở khoảng chấp nhận được do các ngân hàng sáp nhập đều có quy mô không lớn so với toàn hệ thống và chỉ số CRk vẫn thể hiện sự tập trung ở mức trung bình. Từ khóa: tập trung kinh tế, M&A, ngân hàng, Việt Nam 1. Khái quát ngành ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2005- 2017 Trong suốt giai đoạn 2005- 2017, nền kinh tế Việt Nam có nhiều biến động, đặc biệt là năm 2008 do sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới mà nền kinh tế Việt Nam có xu hướng đi xuống cho tới năm 2013 mới có sự khởi sắc. Tuy nhiên, nhìn chung, Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, các quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, và phát triển thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn. Theo đó ngành ngân hàng trong giai đoạn này cũng có nhiều sự thay đổi lớn, đặc điểm của giai đoạn này thể hiện rõ nét qua ba đặc trưng nổi bật: tăng trưởng nóng, suy thoái do khủng hoảng và dần đi vào ổn định. Đặc biệt, với sự ra đời của Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015” (sau đây gọi tắt là Đề án 254), hoạt động của các NHTM chịu sự tác động mạnh mẽ. Vì vậy, bài viết sẽ tập trung vào 2 giai đoạn chính: (1) Giai đoạn 2005- 2011: Giai đoạn trước khi thực hiện Đề án 254; (2) Giai đoạn 2012- 2017: Giai đoạn trong và sau khi thực hiện Đề án 254. Trong khoảng từ năm 2005 đến 2011, dư nợ cho vay kinh doanh, đầu tư bất động sản chiếm tỷ trọng lớn trên tổng dư nợ. Đặc biệt trong năm 2007, tăng trưởng tín dụng trở nên quá nóng khi đạt tốc độ tăng 54% do nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế tăng cao, trong đó bao gồm cả nhu cầu vốn đầu tư chứng khoán và bất động sản. Từ năm 2012- 2017, tăng trưởng dư nợ tín dụng tuy không mạnh mẽ như giai đoạn trước nhưng ổn định và đều đặn hơn. Cùng năm 2007, mức tăng trưởng huy động vốn của toàn ngành Ngân hàng đạt 47,64%- tốc độ tăng mạnh nhất so với những năm trước đó. Đến năm 2010, tổng huy động vốn từ nền kinh tế của hệ thống ngân hàng đã đạt 2.321.973 tỷ đồng, tăng 36,24% so với năm 2009, đây là mức tăng khả quan sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Giai đoạn 2012- 2017, tăng trưởng huy động vốn ở mức ổn định, chỉ trong 2 năm 2014 và 2015 tốc độ tăng trưởng huy động vốn chững lại do lãi suất huy động được điều chỉnh xuống mức thấp so với các kênh sinh lời khác. Bên cạnh hai hoạt động chính của các NHTM là huy động vốn và tín dụng thì các hoạt động khác như bảo hiểm hay cung cấp các dịch vụ thanh toán cũng từng bước được phát triển qua các năm. 2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu LƯƠNG MINH HÀ - TÔ PHƯƠNG NGỌC - NGUYỄN BÍCH NGỌC - NGUYỄN THỊ MINH TÂM - LÊ VŨ THU TRANG Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201936 2.1. Cơ sở lý thuyết về M&A và cạnh tranh trong các NHTM Việt Nam Trên thế giới, hoạt động mua bán sáp nhập các NHTM trong ngành tài chính- ngân hàng là xu hướng phổ biến nhằm cải tổ hệ thống NHTM, tăng cường tính cạnh tranh và khai thác các lợi thế kinh tế. Bên cạnh đó, hoạt động này còn đem đến những kết quả khả quan khác như gia tăng lợi nhuận, tinh giản bộ máy hoạt động, tiết kiệm chi phí xâm nhập Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN 2005- 2017 Hình 1. Tăng trưởng dư nợ tín dụng các NHTM Việt Nam giai đoạn 2005- 2017 Đơn vị: nghìn tỷ đồng, % Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN Hình 2. Tăng trưởng huy động vốn các NHTM Việt Nam giai đoạn 2005- 2017 Đơn vị: nghìn tỷ đồng, % Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam sau sáp nhập giai đoạn 2005- 2017 Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 37 LƯƠNG MINH HÀ - TÔ PHƯƠNG NGỌC - NGUYỄN BÍCH NGỌC - NGUYỄN THỊ MINH TÂM - LÊ VŨ THU TRANG thị trường hay giải cứu các NHTM bên bờ vực phá sản. Tại Việt Nam, từ năm 2006, khi Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực và đi vào đời sống, hoạt động M&A NHTM tại Việt Nam đã bước đầu phát triển cả về số lượng và giá trị, theo đó các nghiên cứu dưới đây về M&A trong lĩnh vực ngân hàng được chia thành 2 hướng: Hướng thứ nhất đưa ra những nhân tố tác động tới M&A; và hướng thứ hai chỉ ra sự ảnh hưởng của hoạt động M&A đến các yếu tố bên trong các ngân hàng cũng như các chỉ số của thị trường kinh tế. Hướng thứ nhất phải kể đến các nghiên cứu của Ngô Đức Huyền Ngân (2009), Shipra Jindal (2008) và Vương Thị Minh Đức (2018). Nghiên cứu của Jindal (2008) đã chỉ ra lý do tại sao M&A lại đóng vai trò quan trọng nhìn từ góc độ của công ty hoặc ngân hàng. Ngô Đức Huyền Ngân (2009) đã phân tích thực trạng hoạt động M&A của hệ thống ngân hàng Việt Nam, điểm mạnh, điểm yếu cũng như động cơ sáp nhập của các ngân hàng và đề xuất các giải pháp giúp định hướng các NHTM trong hoạt động M&A của các ngân hàng Việt Nam. Vương Thị Minh Đức (2018) đánh giá ưu điểm và những vấn đề còn tồn tại, rút ra được những đặc điểm, nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam, qua đó gợi ý một số giải pháp phát triển hoạt động M&A trong ngành ngân hàng tại Việt Nam. Hướng nghiên cứu thứ hai đã có nhiều đánh giá về tác động của hoạt động M&A trong ngành ngân hàng tới mức độ cạnh tranh và các yếu tố khác. Nghiên cứu của Le Hai Trung (2014) đã chỉ ra M&A là một trong những nhân tố chính làm cải thiện mức độ cạnh tranh các ngân hàng nội địa. Cùng mục đích đưa ra đánh giá về cấu trúc thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, nghiên cứu của Nguyễn Thế Bính (2015) sử dụng phương pháp đo lường mức độ tập trung thông qua chỉ số CRk và HHI. Đó là mức độ tập trung thị trường trong hệ thống có xu hướng giảm trong cả 03 tiêu chí: Tổng tài sản, huy động vốn và cho vay của hệ thống NHTM Việt Nam. Với mục đích phân tích tác động của M&A tới các yếu tố khác, nhóm tác giả Vuong Quan Hoang, Tran Tri Dung và Nguyen Thi Chau Ha (2009) đã kết hợp các nguồn dữ liệu từ phỏng vấn quản lý tới báo cáo tài chính hay thông cáo báo chí để phân tích các tác động của M&A tại Việt Nam thời kỳ đổi mới tới. Nghiên cứu của Phan Quan Viet (2014) đã nghiên cứu hoạt động M&A ở Việt Nam giai đoạn 2005- 2011 và phân tích các thành tựu và tác động của các thương vụ M&A đến thị trường kinh tế Việt Nam. Nghiên cứu của nhóm tác giả Hoang Thi Thanh Hang, Phan Dien Vy, Jay Bandaralage (2016) đã chỉ ra tác động của M&A đối với hệ thống NHTM Việt Nam là tích cực; sau M&A, mức độ tập trung kinh tế chỉ ở mức trung bình và mức độ cạnh tranh cao. Tuy nhiên các chỉ số tập trung trong bài không thể phản ánh toàn bộ sự ảnh hưởng của một nhóm ngân hàng trên thị trường. Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Lý, Trần Văn Quyết, Dương Thanh Tình (2013), được thực hiện dựa trên các số liệu thu thập được từ các báo cáo tài chính của các NHTM, đã phân tích các vấn đề cần lưu ý và đề xuất một số kiến nghị nhằm thúc đẩy quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong thời gian tới từ thương vụ sáp nhập đầu tiên theo chủ trương tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của NHNN. Nghiên cứu của Lương Minh Hà, Nguyễn Minh Chi, Ngô Trần Vân Khanh Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201938 (2018) đã bổ sung thêm kiến thức về hoạt động M&A nói chung tại Việt Nam khi đánh giá, phân tích cả những nhân tố tác động tới M&A và những nhân tố bị ảnh hưởng bởi M&A. Tổng quan các nghiên cứu trên cho thấy, nghiên cứu về hoạt động M&A trong lĩnh vực Tài chính- Ngân hàng tại Việt Nam là không quá mới mẻ, tuy nhiên các tác giả nhận thấy rằng đa phần các nghiên cứu về cạnh tranh trong ngành ngân hàng và M&A đều thể hiện được mối quan hệ qua lại của hoạt động M&A đến hoạt động của các ngân hàng thời kỳ hậu sáp nhập nhưng chưa khẳng định rõ hệ quả của hoạt động này đến mức độ cạnh tranh trong ngành cũng như các mô tả chi tiết hơn xung quanh các tác động đó đến tính cạnh tranh giữa các NHTM. Bảng 1. Thống kê về tỷ trọng của 3 NHTM thuộc mẫu nghiên cứu giai đoạn 2005- 2017 Năm Tổng tài sản Cho vay Huy động vốn Tương đối (%) Tuyệt đối (triệu đồng) Tương đối (%) Tuyệt đối (triệu đồng) Tương đối (%) Tuyệt đối (triệu đồng) 2005 72,30% 373.625.709 76,81% 273.373.778 75,75% 279.725.897 2006 63,49% 460.735.158 71,57% 335.891.086 69,51% 317.146.479 2007 50,66% 568.032.155 58,45% 403.072.326 56,34% 389.350.609 2008 48,85% 662.199.555 56,21% 439.616.893 53,20% 442.098.432 2009 42,19% 795.713.178 50,26% 542.948.497 46,66% 504.726.555 2010 38,11% 1.041.619.762 47,46% 714.619.647 44,12% 655.375.289 2011 36,40% 1.232.897.811 48,90% 882.088.192 42,24% 724.660.428 2012 40,80% 1.402.803.136 47,18% 983.816.228 41,87% 877.546.566 2013 42,13% 1.593.748.531 47,16% 1.077.014.225 40,92% 1.035.644.731 2014 43,40% 1.888.577.751 48,18% 1.288.021.030 41,89% 1.286.856.543 2015 44,83% 2.304.385.067 48,52% 1.584.385.457 42,53% 1.558.705.673 2016 46,12% 2.742.883.228 49,16% 1.919.719.072 45,66% 1.971.533.188 2017 46,67% 3.332.637.968 49,55% 2.321.931.257 46,73% 2.321.440.228 Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp Bảng 2. 35 NHTMCP thuộc mẫu nghiên cứu Á Châu (ACB) Nhà Hà Nội MHD Sacombank Bản Việt An Bình HDBank Nam Á SHB Vietcombank Bảo Việt Kiên Long Quốc dân Phương Nam Vietinbank BIDV Bưu điện Liên Việt Xăng dầu Petrolimex Techcombank VIB Đại Á MSB Phương Đông Tiên Phong Việt Nam Thương Tín SeaBank MB SCB Việt Nam Tín Nghĩa VPbank Eximbank MHB Saigonbank Việt Á Phương Tây Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam sau sáp nhập giai đoạn 2005- 2017 Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 39 2.2. Phương pháp nghiên cứu Để khảo sát diễn biến chỉ số tập trung kinh tế sau các thương vụ M&A trong lĩnh vực NHTM tại Việt Nam, nghiên cứu chủ yếu dựa trên dữ liệu thứ cấp từ trang thông tin điện tử của NHNN và các báo cáo thường niên của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu (2005- 2017). Đây là khoảng thời gian mở cửa nền kinh tế với hàng loạt bộ Luật đã ra đời, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp nói chung, ngành ngân hàng nói riêng có cơ sở tiến hành M&A, như Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Cạnh tranh 2004, Luật Chứng khoán 2006... Các thông tin được sử dụng là ba chỉ tiêu thể hiện đặc trưng hoạt động kinh doanh của các NHTM, đó là: tổng tài sản, dư nợ tín dụng và tiền gửi khách hàng. Về phương pháp đo lường, nhóm sử dụng chỉ số HHI (Herfindahl-Hirschman Index) và CRk (Concentration Ratio). Hai chỉ số này được sử dụng phổ biến nhất trong việc đo lường mức độ tập trung thị trường trong nền kinh tế nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng (Le Hai Trung, 2014; Nguyễn Thế Bính, 2015; Hoang Thi Thanh Hang và cộng sự, 2016). 2.2.1. Chỉ số CRk Chỉ số CRk được dùng để đo lường mức độ tích tụ thị trường, cho biết liệu thị phần có rơi vào một nhóm ngân hàng không. Trong ngành ngân hàng Việt Nam hiện nay, tuy có nhóm 4 ngân hàng lớn nhất về quy mô tổng tài sản gồm có Agribank, BIDV, Vietinbank và Vietcombank, nhưng đặc thù của Agribank là doanh nghiệp Nhà nước tổ chức theo mô hình công ty TNHH Một thành viên, với 100% số vốn thuộc sở hữu Nhà nước, và chưa thực hiện cổ phần hóa trong giai đoạn mà nhóm thực hiện nghiên cứu nên khi tính toán chỉ số CRk, nhóm sẽ không xét đến Agribank trong mẫu. Do đó, trong nghiên cứu này, nhóm sử dụng CR3, để kiểm tra mức độ tập trung trên ba khía cạnh tổng tài sản, huy động vốn và cho vay của các ngân hàng qua các năm. Cách thức xác định chỉ số này như sau (Westman, 2005): Trong đó S i là thị phần của doanh nghiệp lớn thứ i trong ngành; n = 3 hoặc 5 tùy trường hợp cần xác định CR3 hay CR5. Dựa vào các mức độ tập trung, có thể phân loại thị trường thành các dạng sau: - Cạnh tranh hoàn hảo, với tỷ lệ tập trung rất nhỏ. - Cạnh tranh một cách tương đối, CR3< 65%, mức độ tập trung trung bình. - Độc quyền nhóm (Oligopoly) hoặc có vị trí thống lĩnh thị trường, CR3> 65%, mức độ tập trung cao. - Độc quyền, CR1 xấp xỉ 100%. 2.2.2. Chỉ số HHI Chỉ số HHI được sử dụng để đo lường quy mô của doanh nghiệp trong mối tương quan với ngành. Đây là một chỉ báo về mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành, thường được tính bằng tổng bình phương thị phần của các doanh nghiệp và có giá trị từ 0 đến 10.000. Nhóm chọn ra 35 NHTMCP có đầy đủ dữ liệu từ năm 2005 đến năm 2017 về cả ba chỉ tiêu tổng tài sản, huy động vốn và tín dụng. LƯƠNG MINH HÀ - TÔ PHƯƠNG NGỌC - NGUYỄN BÍCH NGỌC - NGUYỄN THỊ MINH TÂM - LÊ VŨ THU TRANG Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201940 Trong giai đoạn 2005- 2017, tỉ trọng của 35 NHTMCP này ở cả ba chỉ tiêu tổng tài sản, tổng mức tín dụng và tổng mức huy động vốn toàn ngành dao động trong khoảng từ 65%- 80%. Cụ thể, năm 2005 chiếm 66,92% tổng tài sản ngành ngân hàng; 67,4% tổng mức tín dụng toàn ngành và 74,48% tổng mức huy động vốn toàn ngành. Như vậy, mẫu 35 NHTM có tính đại diện cho toàn ngành, đủ cơ sở cho nhóm nghiên cứu đưa ra nhận xét, kết luận. Trong bài viết, nhóm chỉ tập trung vào các NHTMCP, không bao gồm chi nhánh ngân hàng nước ngoài và NHTM Nhà nước. Cho vay và huy động vốn là hai nghiệp vụ kinh doanh chính của các NHTM. Trong đó, cung cấp tín dụng là hoạt động đặc trưng quan trọng nhất, mang đến lợi nhuận lớn hàng đầu cho các NHTM. Bên cạnh đó, nghiệp vụ huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng nhưng lại là nghiệp vụ giải quyết yếu tố đầu vào cho ngân hàng. Tổng tài sản là một trong những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá mức độ cạnh tranh giữa các NHTM trên thị trường, vì tổng tài sản gắn liền với ưu thế thị phần, thị phần càng lớn thì lợi thế cạnh tranh càng lớn. Như vậy, việc chọn ba chỉ tiêu trên từ 35 NHTMCP là phù hợp với mục tiêu nghiên cứu của nhóm. Cách tính chỉ số HHI như sau: Trong đó n là tổng số doanh nghiệp và S i là thị phần của doanh nghiệp thứ i trong ngành. Theo Horizontal Merger Guidelines, ban Bảng 3. Thống kê về tỷ trọng của 35 NHTM thuộc mẫu nghiên cứu giai đoạn 2005- 2017 Năm Tổng tài sản Cho vay Huy động vốn Tương đối (%) Tuyệt đối (triệu đồng) Tương đối (%) Tuyệt đối (triệu đồng) Tương đối (%) Tuyệt đối (triệu đồng) 2005 66,92% 516.760.444 67,40% 355.908.514 74,48% 369.261.254 2006 68,07% 725.646.844 68,96% 469.335.221 73,08% 456.237.130 2007 71,69% 1.121.198.264 71,45% 689.593.938 73,66% 691.014.997 2008 71,42% 1.355.569.659 69,45% 782.139.042 71,19% 830.944.686 2009 74,70% 1.886.127.679 70,24% 1.080.223.502 74,08% 1.081.798.054 2010 79,58% 2.733.515.807 73,38% 1.505.739.030 76,01% 1.485.412.554 2011 80,95% 3.387.402.885 75,46% 1.803.940.516 77,53% 1.715.431.917 2012 80,77% 3.438.228.450 76,64% 2.085.339.141 77,13% 2.095.695.648 2013 80,06% 3.783.202.151 79,41% 2.283.551.548 77,12% 2.530.798.753 2014 81,29% 4.351.580.113 78,21% 2.673.524.938 78,58% 3.071.850.082 2015 83,76% 5.139.731.747 80,88% 3.265.621.097 79,64% 3.664.951.828 2016 83,96% 5.947.657.847 81,53% 3.904.909.719 80,30% 4.318.209.066 2017 85,17% 7.140.908.948 82,64% 4.686.289.107 82,26% 4.967.927.375 Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam sau sáp nhập giai đoạn 2005- 2017 Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 41 hành bởi Bộ Tư pháp Hoa Kỳ và Ủy ban Thương mại Liên bang Mỹ, các cơ quan quản lý cạnh tranh thường phân loại các thị trường theo cơ sở sau: (i) HHI< 1.000: Thị trường không mang tính tập trung; (ii) 1.000≤ HHI≤ 1.800: Thị trường tập trung ở mức độ vừa phải; (iii) HHI> 1.800: Thị trường tập trung ở mức độ cao. Ưu điểm chủ yếu của chỉ số HHI so với các cách đo khác (chẳng hạn như tỷ lệ tập trung- CR) là đã tính tỷ trọng lớn hơn đối với các doanh nghiệp lớn. Chỉ số HHI tăng làm mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng giảm, ngược lại, khi chỉ số HHI giảm nghĩa là mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng tăng. 3. Kết quả nghiên cứu Thông qua tính toán nhóm nghiên cứu thấy rằng, chỉ số HHI ở các chỉ tiêu Tổng tài sản, Tín dụng và Huy động vốn đều có xu hướng giảm trước năm 2011 và tăng lên từ năm 2012 trở đi (Hình 3). Điều này cho thấy mức độ cạnh tranh của các NHTM trước năm 2011 cao hơn so với các năm sau đó. Diễn biến của chỉ số CR3 trong giai đoạn này tương tự như chỉ số HHI: Đồ thị của chỉ số CR3 (Hình 4) cũng cho thấy một sự sụt giảm liên tục trong giai đoạn 2005- 2011 và bắt đầu ổn định hơn trong giai đoạn 2012- 2017. Hai chỉ số này bổ sung cho nhau cùng thể hiện mức độ cạnh tranh của các NHTM tại Việt Nam có xu hướng giảm khi số lượng ngân hàng giảm do hoạt động M&A. Điều này đồng nghĩa với việc hoạt động M&A có tác động làm tăng mức độ tập trung kinh tế trong ngành Ngân hàng, kết quả này giúp nhóm có cơ sở thực tế để đề xuất những kiến nghị trong phần tiếp theo. Trong giai đoạn trước năm 2004, quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên do ảnh hưởng của kinh tế trong nước, các ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hồi các khoản nợ từ doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nên các ngân hàng, đặc biệt là NHTMCP nông thôn mất khả năng thanh toán, gây ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng t
Tài liệu liên quan