Trong những năm gần đây, xu hướng toàn cầu hóa cùng sự
phát triển của công nghệ mang lại nhiều tác động tích cực đối với
nền kinh tế như tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều hàng hóa,
dịch vụ mới. Tuy nhiên, những tiến bộ của máy móc kĩ thuật trong
cuộc cách mạng 4.0 cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm trong
các ngành sản xuất, đặc biệt ở các nước tiên tiến. Các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam cũng không tránh khỏi sẽ bị ảnh
hưởng bởi xu thế này. Công nhân tay nghề thấp hoặc trung bình sẽ
bị ảnh hưởng nhiều nhất do quá trình tự động hóa và lao động trình
độ cao sẽ là đối tượng ít bị ảnh hưởng nhất. Lao động Việt Nam có
ưu điểm là chăm chỉ, cần cù. Tuy nhiên, chất lượng lao động chưa
cao do nhiều nguyên nhân như giáo dục, môi trường, rèn luyện.
Việc đổi mới giáo dục, thu hút nhân tài, đào tạo kỹ thuật cho lao
động và tăng cường hợp tác quốc tế là rất cần thiết giúp người lao
động có thể tồn tại và cạnh tranh trong bối cảnh cuộc cách mạng
4.0 đang ngày càng phát triển. Do đó, Việt Nam cần có biện pháp
cụ thể nhằm nâng cao chất lượng nhân lực theo hướng công nghiệp
hiện đại để bắt kịp với những thay đổi diễn ra trong cuộc CMCN
lần thứ tư.
9 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 535 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong cuộc cách mạng 4.0, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
64 Nguyễn Minh Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 64-72
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
trong cuộc cách mạng 4.0
Nguyễn Minh Trang1*
1Học viện Ngoại giao
*Tác giả liên hệ, Email: trangdav@gmail.com
THÔNG TIN TÓM TẮT
Ngày nhận: 25/05/2020
Ngày nhận lại: 21/07/2020
Duyệt đăng: 23/08/2020
Từ khóa:
4.0, nhân lực, Việt Nam
Keywords:
4.0, human resources,
Vietnam
Trong những năm gần đây, xu hướng toàn cầu hóa cùng sự
phát triển của công nghệ mang lại nhiều tác động tích cực đối với
nền kinh tế như tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều hàng hóa,
dịch vụ mới. Tuy nhiên, những tiến bộ của máy móc kĩ thuật trong
cuộc cách mạng 4.0 cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm trong
các ngành sản xuất, đặc biệt ở các nước tiên tiến. Các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam cũng không tránh khỏi sẽ bị ảnh
hưởng bởi xu thế này. Công nhân tay nghề thấp hoặc trung bình sẽ
bị ảnh hưởng nhiều nhất do quá trình tự động hóa và lao động trình
độ cao sẽ là đối tượng ít bị ảnh hưởng nhất. Lao động Việt Nam có
ưu điểm là chăm chỉ, cần cù. Tuy nhiên, chất lượng lao động chưa
cao do nhiều nguyên nhân như giáo dục, môi trường, rèn luyện.
Việc đổi mới giáo dục, thu hút nhân tài, đào tạo kỹ thuật cho lao
động và tăng cường hợp tác quốc tế là rất cần thiết giúp người lao
động có thể tồn tại và cạnh tranh trong bối cảnh cuộc cách mạng
4.0 đang ngày càng phát triển. Do đó, Việt Nam cần có biện pháp
cụ thể nhằm nâng cao chất lượng nhân lực theo hướng công nghiệp
hiện đại để bắt kịp với những thay đổi diễn ra trong cuộc CMCN
lần thứ tư.
ABSTRACT
In recent years, the globalization and the development of
technology has brought many positive effects on the economy such
as increasing labor productivity, creating new goods and services.
However, advances in engineering machines in the 4.0 revolution
also directly affect jobs in manufacturing industries, especially in
advanced countries. Developing countries including Vietnam will
inevitably be affected by this trend. The low- or medium-skilled
workers will be most affected by automation and the highly skilled
workers will be the least affected. Vietnamese labor has the
advantage of hard work. However, the quality of labor is not high
due to many reasons such as education, environment and training.
The renovation of education, attracting talents, technical training
for workers and strengthening international cooperation are
essential to help workers to survive and compete in the context of
the 4.0 revolution. Therefore, Vietnam needs to take specific
measures to improve the quality of human resources in the
direction of modern industry to keep up with the changes taking
place in the Fourth Industrial Revolution.
Nguyễn Minh Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 64-72 65
1. Giới thiệu
Ngày nay, đổi mới khoa học - công nghệ đang trở thành một xu hướng toàn cầu. Sự xuất
hiện và mở rộng mạnh mẽ của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang mang đến những
bước đột phá về công nghệ và có ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các
quốc gia. CMCN 4.0 đem đến nhiều lợi thế cho quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của các
quốc gia do những tiến bộ kỹ thuật, công nghệ có thể cải thiện năng lực sản xuất và mang lại hiệu
suất cao hơn. Tuy nhiên, cuộc CMCN lần này cũng đặt ra những thách thức không nhỏ với các
quốc gia có các ngành nghề thâm dụng lao động chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Nguyên
nhân là do khi máy móc dần thay thế con người, một lượng lớn lao động sẽ rơi vào tình trạng thất
nghiệp. Hệ quả của việc này sẽ là sự suy giảm hiệu suất kinh tế và gia tăng các gánh nặng cũng
như bất ổn về xã hội. Bên cạnh đó, những quốc gia không đủ khả năng để tiếp thu các tiến bộ của
CMCN cũng dễ rơi vào tình trạng tụt hậu, kém phát triển so với phần còn lại của thế giới. Vì vậy,
việc xây dựng một nguồn nhân lực chất lượng và có đủ trình độ để đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật -
công nghệ của CMCN lần thứ tư là hết sức cần thiết với tất cả các quốc gia, đặc biệt là các nước
đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Cách mạng 4.0 là cuộc chạy đua bằng năng lực và khả năng làm chủ công nghệ. Bởi vậy,
con người không chỉ đóng vai trò trung tâm trong việc tạo ra công nghệ mà còn là nhân tố quyết
định cuộc cách mạng khoa học công nghệ sẽ đi xa tới đâu. Để đáp ứng được yêu cầu này, nhân lực
khoa học công nghệ thời đại 4.0 buộc phải có chuyên môn vững vàng, sự chủ động, trách nhiệm
và khả năng thích ứng nhanh chóng với môi trường liên tục biến đổi. Nhân lực khoa học và công
nghệ thường được hiểu là nguồn nhân lực nghiên cứu phát triển, hay còn gọi là R&D để thể hiện
lực lượng lao động khoa học và công nghệ của mình. Việt Nam có những lợi thế nhất định về lao
động, đặc biệt là lực lượng lao động vẫn còn dồi dào và cơ cấu lao động tương đối trẻ. Tính đến
hết năm 2019, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 56,1 triệu người, chiếm gần
60% tổng dân số. Đây là nhóm tuổi có khả năng năng tiếp thu được những tri thức mới, kỹ năng
mới để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động của Việt Nam.
2. Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
2.1. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động
Ở Việt Nam, giáo dục đào tạo luôn có được vị trí quan trọng trong các chính sách của Nhà
nước và trong đầu tư của các gia đình. Chi phí cho giáo dục đào tạo tính bằng phần trăm GDP luôn
dao động ở mức cao so với các nước có trình độ phát triển tương đồng và cả các nước ở trong khu
vực. Cụ thể, tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục hàng năm của Việt Nam ở mức xấp xỉ 20%, tương
đương 5% GDP, cao hơn cả Singapore (3,2%), Malaysia (5,1%), Thái Lan (3,8%), Hàn Quốc
(5,2% năm 2011) và Hồng Kông (3,5%) (Bộ Khoa học và Công nghệ - Cục Thông tin khoa học
và công nghệ quốc gia, 2017). Nhờ vậy, hệ thống giáo dục của Việt Nam đạt nhiều kết quả được
quốc tế thừa nhận. Điều này được minh chứng rất rõ thông qua cuộc khảo sát PISA - Chương trình
đánh giá chất lượng học sinh của Khối hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) qua các năm. Ngoài
một số những lợi thế về số lượng và điều kiện như trên, chất lượng nguồn nhân lục tại Việt Nam
vẫn còn những điểm hạn chế.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2019, chỉ có 22,8% lao động Việt Nam đang
làm việc trong nền kinh tế đã từng qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Trong số đó, số lượng lao
động có trình độ về công nghệ, kỹ thuật còn rất thấp. Năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam
năm 2019 đạt 61,5/100 điểm nhưng cũng chỉ xếp trên Lào và Campuchia trong cùng khu vực
(Tổng Cục Thống Kê, 2019a). Tỷ lệ có trình độ cao đẳng và tỷ lệ có trình độ trung cấp là 11,2%,
tuy nhiên, con số này ở địa phương lên tới 28%. Tỷ lệ này nói chung khá phù hợp với thống kê về
tỷ lệ chức danh nghề nghiệp đã nêu trên. Tuy nhiên có thể nhận thấy rằng trình độ học vấn, học vị
66 Nguyễn Minh Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 64-72
của đội ngũ viên chức khoa học và công nghệ trên cả nước chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
nhân lực Việt Nam nói chung và phát triển nhân lực khoa học công nghệ nói riêng. Bên cạnh đó,
sự phân bố đội ngũ viên chức khoa học và công nghệ cũng không đồng đều xét theo khía cạnh học
hàm, học vị. Tiến sĩ khoa học, viên chức khoa học và công nghệ giữ chức danh khoa học công
nghệ hạng I, hạng II chủ yếu tập trung ở Trung ương, đặc biệt là ở Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các trường đại học lớn. Trong
khi đó ở các địa phương, cán bộ có trình độ tiến sĩ rất ít. Chính sự phân bố không đồng đều đã dẫn
tới sự thiếu hụt trầm trọng cán bộ nghiên cứu đảm nhiệm các nhiệm vụ khoa học và công nghệ ở
địa phương, đặc biệt là các địa bàn xa xôi, miền núi. Lĩnh vực giáo dục và đào tạo không những là
ngành chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mà còn có những tác
động ngược lại cuộc cách mạng này vì công nghệ và vốn con người là hai yếu tố then chốt nhất
trong các mô hình tăng trưởng nội sinh. Khác với các yếu tố đầu vào như vốn, đất đai, tài nguyên
thiên nhiên – thường bị ràng buộc bởi trần giới hạn, công nghệ và nhân lực có thể tăng lên không
giới hạn nên đây sẽ là chìa khóa để cho các quốc gia có thể thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
Hình 1: Trình độ lao động Việt Nam năm 2019
Nguồn: Tổng cục thống kê (2019)
2.2. Về năng suất lao động
Theo Tổng cục Thống kê, năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2019
ước tính đạt 110,4 triệu VNĐ/lao động (tương đương khoảng 4.791 USD/lao động). Năng suất lao
động của Việt Nam thời gian qua tuy có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm
nhưng vẫn rất thấp so với nhiều nước trong khu vực. Nếu chọn năm 2011 là năm gốc thì năng suất
lao động năm 2018 của Việt Nam chỉ bằng 7,3% mức năng suất của Singapore, 19% của Malaysia;
37% của Thái Lan; 44,8% của Indonesia và bằng 55,9% của Philipines (Bộ Khoa học và Công
nghệ - Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia, 2016). Mặc dù Việt Nam đã có mức tăng
trưởng rất nhanh qua các năm về năng suất lao động nhưng rõ ràng vẫn có khoảng tương đối xa so
với các quốc gia khác trong cùng khu vực. Với mức năng suất lao động thấp như vậy thì dù có lợi
thế về số lượng lao động tham gia trên thị trường và nhân công giá rẻ nhưng lợi thế cạnh tranh vẫn
không cao so với các nền kinh tế đang phát triển khác.
2.3. Về tỷ lệ lao động làm việc trong các ngành
Tại Việt Nam, số lượng lao động phân chia trong các ngành vẫn chưa có sự đồng đều, chủ
Nguyễn Minh Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 64-72 67
yếu tập trung vào các lĩnh vực có công nghệ thấp và sử dụng nhiều nhân công. Năm 2019, tỷ lệ
lao động trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp ước tính chiếm 35,4%, trong khi tỷ lệ này ở các
ngành công nghiệp xây dựng là 28,6%, còn ở ngành dịch vụ là 36% (Tổng Cục Thống Kê, 2019b).
Việt Nam hiện đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân lực trong nhiều ngành dịch vụ và
công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin. Nhu cầu đối với ngành này tăng liên tục nhưng thị
trường luôn trong tình trạng thiếu cung. Ở Việt Nam, cơ cấu nguồn nhân lực R&D hiện còn tồn
tại rất nhiều điểm bất hợp lý. Theo số liệu điều tra cuối năm 2016, nguồn nhân lực là cán bộ kỹ
thuật tại Việt Nam chỉ chiếm 6,8% lực lượng lao động. Trong khi đó, ở các quốc gia Châu Âu, tỷ
lệ này luôn ở mức từ 25 – 35%, gấp 4- 5 lần Việt Nam (Le Anh, 2020). Điều này đã và đang tạo
ra một thách thức không nhỏ cho nền khoa học công nghệ khi nhân lực R&D chính là một trong
hai nhân tố quyết định trong mỗi cuộc cách mạng công nghiệp. Cán bộ nghiên cứu thường chiếm
trên 70% trong tổng số lượng cán bộ của ngành R&D, trong khi cán bộ kỹ thuật và cán bộ hỗ trợ,
người sẽ đem những phát minh sáng chế hiện thực hóa ngoài đời sống lại chiếm số lượng khá nhỏ,
chỉ dao động ở mức 10% (Duong Tam, 2019). Điều này đang thực sự gây ra nhiều khó khăn trong
công tác đưa khoa học công nghệ vào đời sống kinh tế - xã hội bởi những phát minh, sáng chế do
các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học tạo ra sẽ chỉ nằm trên giấy mà không có ứng dụng thực
tiễn cho đại đa số người dân. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ năm, cả nước có tới
1055 tổ chức khoa học và công nghệ, trong đó tổ chức nghiên cứu và phát triển chiếm 47,9%,
nhóm cơ sở giáo dục đại học chiếm 32% và các tổ chức dịch vụ khoa học công nghệ chiếm 20,1%.
Tổ chức khoa học công nghệ là các trường đại học có 339 trường. Trong đó, 46,6% hoạt động
trong lĩnh vực khoa học, xã hội và nhân văn; chỉ có 31% nằm trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và
công nghiệp; lĩnh vực y dược chiếm 9,4%, lĩnh vực khoa học tự nhiên: 7,7% và đứng cuối bảng là
lĩnh vực nông nghiệp với chỉ 5,3%. Với mức phân bổ nhân lực chênh lệch giữa các ngành như vậy,
Việt Nam khó có thể đẩy nhanh cuộc cách mạng 4.0 (Giang Le, 2019).
Hình 2: Nhu cầu lao động trong ngành CNTT tại Việt Nam
Nguồn: forbesvietnam
2.4. Về trình độ ngoại ngữ
Lao động Việt Nam hiện nay vẫn còn rất nhiều bất cập như trình độ ngoại ngữ và chuyên
môn chưa đảm bảo, tác phong làm việc thiếu chuyên nghiệp, khả năng quản lý còn yếu kém. Theo
Ngân hàng Thế giới, năm 2019 chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 và xếp thứ
11/12 nước châu Á (Minh Ngoc, 2019). Những yếu tố này sẽ là cản trở rất lớn với Việt Nam trong
quá trình tiếp thu kỹ thuật - công nghệ để bắt kịp với xu hướng phát triển chung của thế giới. Bên
cạnh đó, Việt Nam còn đối mặt với tình trạng chảy máu chất xám tương đối nghiêm trọng. Điều
này gây ra sự thất thoát rất lớn cho nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước, cũng như gây khó
khăn cho quá trình cải thiện chất lượng đồng bộ và tiếp thu những công nghệ tiên tiến trên thế giới.
Từ những điểm yếu trên, có thể thấy nguồn nhân lực Việt Nam vẫn còn rất nhiều thiếu sót so với
một lực lượng có khả năng tiếp thu nhanh chóng và mạnh mẽ tất cả những tiến bộ của cuộc CMCN
lần thứ tư. Do đó, trong bối cảnh khoa học – công nghệ đang ngày càng phát triển và tạo ra nhiều
đột phá, việc nâng cao chất lượng nhân lực là một yêu cầu cấp thiết với Việt Nam.
68 Nguyễn Minh Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 64-72
3. Các giải pháp giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Từ những đặc điểm hiện tại của nguồn nhân lực và kết quả thực tế của các chính sách nâng
cao chất lượng nhân lực tại Việt Nam, quá trình cải thiện chất lượng lao động có thể tập trung vào
các khía cạnh: đổi mới giáo dục, thu hút nhân tài, đào tạo kỹ thuật cho lao động và tăng cường hợp
tác quốc tế, trong đó quan trọng nhất là các chính sách đưa ra cần bám sát và có sự liên kết chặt
chẽ với tình hình thực tiễn.
3.1. Gắn chiến lược phát triển nhân lực với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Điểm yếu lớn nhất trong các chính sách của Việt Nam là thiếu sự bám sát với tình hình
thực tế, dẫn tới việc khó đạt được các mục tiêu đã đặt ra. Do đó, các chương trình, đề án nhằm
nâng cao chất lượng lao động được đưa ra cần phải thực hiện theo lộ trình nhiều bước để đạt được
mục tiêu một cách ổn định hơn. Ngoài ra, các mục tiêu đặt ra cũng cần phải cụ thể, sát thực, phản
ánh đúng nhu cầu của thị trường lao động và bối cảnh kinh tế đất nước, tránh việc đặt ra đích đến
quá cao, quá thiếu thực tế. Như ở Trung Quốc, các mục tiêu thu hút nhân tài hay đào tạo nhân lực
đều được đưa ra dựa trên tình hình thực tế của cả nước và từng địa phương. Chính phủ Trung Quốc
cũng khuyến khích các tỉnh thành chủ động đưa ra các chính sách phát triển nhân lực riêng bằng
(một phần) nguồn tài chính được cấp bởi Nhà nước. Điều này giúp các chương trình, dự án được
triển khai có mức độ tương thích cao với bối cảnh và nhu cầu thực tế của các địa phương, tránh
việc thu hút tràn lan, sử dụng kinh phí thừa thãi. Từ đó, nếu muốn thực hiện hiệu quả mục tiêu
phát triển nguồn nhân lực, việc bám sát vào tình hình thực tế trong quá trình hoạch định chính sách
là rất cần thiết với cả cơ quan Trung ương và chính quyền địa phương ở Việt Nam.
Để làm được điều này, nên tổ chức điều tra khảo sát nhân lực hiện đang làm việc và nhu
cầu nhân lực trong các năm tới của các ngành kinh tế, vùng miền. Mặt khác, cần xây dựng và vận
hành có hệ thống cơ sở dữ liệu tốt nhất về nguồn nhân lực để theo dõi tình hình thực hiện và phục
vụ cho phân tích, đánh giá, dự báo. Mục đích của việc này là giúp Chính quyền có định hướng
trong việc phân bổ nhân lực hợp lý về trình độ, cơ cấu ngành nghề phù hợp quy hoạch phát triển
nhân lực của địa phương, đất nước trong các giai đoạn. Ngoài ra, cần tập trung gắn kết việc xây
dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập
kinh tế quốc tế. Cần gắn quy hoạch phát triển nhân lực của mỗi bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của đất nước. Như vậy, các
chính sách phát triển nhân lực trên cả nước sẽ có sự gắn kết, hỗ trợ và bổ sung cho nhau, giúp
nguồn nhân lực Việt Nam được phát triển đồng bộ, đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội đồng
đều và cân bằng. Ngành giáo dục cũng tồn tại nhiều hạn chế trong hệ thống cơ sở vật chất. Đa số
các trường dân lập hiện nay đều đã được trang bị các thiết bị nghe nhìn phục vụ cho công tác giảng
dạy như máy chiếu, máy tính và TV. Đáng chú ý, một số trường dân lập, trường quốc tế như
Wellspring, Đoàn Thị Điểm hay Lương Thế Vinh đã bắt đầu ứng dụng công nghệ 3D trong dạy
và học. Tuy nhiên, ở các trường công lập, ứng dụng công nghệ 4.0 vẫn là một mục tiêu khá xa vời.
Phần lớn ở các trường công lập, thiết bị hiện đại nhất mà giáo viên và học sinh được tiếp cận là ti
vi và máy chiếu. Chỉ ở những thành phố lớn, giáo viên mới được sử dụng máy chiếu và TV. Tuy
nhiên rõ ràng, tất cả những thiết bị này mới chỉ là ứng dụng của cách mạng 3.0, thậm chí 2.0. Như
vậy, phải mất nhiều thời gian nữa, giáo dục Việt Nam mới có thể bắt kịp công nghệ 4.0, sử dụng
robot, công nghệ thực tế ảo trong dạy và học như Mỹ, Đức, Nhật Bản - các nước đi đầu về công
nghệ thông tin.
3.2. Cải thiện trình độ chuyên môn và kỹ thuật cho lao động Việt Nam
Giáo dục là yếu tố tiên quyết quyết định trình độ của một lao động vì vậy cần đổi mới căn
bản giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, các chính sách đổi
mới giáo dục của Việt Nam hiện nay lại đặt nặng tính lý thuyết và bằng cấp mà chưa thực sự chú
Nguyễn Minh Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 64-72 69
trọng đến chất lượng dạy và học. Thực tế từ Trung Quốc cho thấy, việc quá đề cao thứ hạng và
bằng cấp chỉ làm yếu đi vai trò của giảng dạy và nghiên cứu trong các trường, đặc biệt là trường
ĐH. Tuy nhiên, bù lại cho sự quan trọng hóa thứ hạng của Trung Quốc, hệ thống giáo dục của
nước này vẫn đạt được những bước tiến đáng chú ý nhờ các chính sách hỗ trợ giáo dục trọng điểm
có hiệu quả. Thay vì đào tạo tràn lan, Trung Quốc tập trung nguồn lực cho một nhóm trường có
chất lượng nghiên cứu tốt. Thông qua việc phát triển nhóm trường này, Chính phủ Trung Quốc hy
vọng có thể kéo được chất lượng của cả một hệ thống giáo dục đi lên. Ngoài ra, Trung Quốc cũng
hỗ trợ các trường trong việc mời các chuyên gia nước ngoài về giảng dạy và nghiên cứu để học
tập kinh nghiệm cũng như tiếp thu kỹ năng của họ. Đây là những khía cạnh mà Việt Nam vẫn chưa
thực sự chú ý trong các chính sách đổi mới giáo dục, đặc biệt là giáo dục bậc cao.
Để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam, ngành giáo dục cần phải có những đổi
mới sâu rộng trên nhiều cấp học. Với giáo dục phổ thông, cần cải cách nội dung và phương pháp
giảng dạy theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, khả năng tự học, tăng thời gian thực hành, nâng
cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ cho học sinh. Bên cạnh đó, đẩy mạnh xã hội hóa, giao quyền tự
chủ cho các trường ĐH, CĐ và dạy nghề công lập, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào
tạo dạy nghề cũng là những biện pháp khả quan. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần kiểm soát việc thực
hiện tốt cơ chế, chính sách, pháp luật về phát triển giáo dục - đào tạo, coi trọng đào tạo ĐH và trên
ĐH, CĐ và dạy nghề theo chuẩn khu vực và quốc tế. Thêm vào đó, cần thành lập các trung tâm
đào tạo nghề kỹ thuật cao tại các tỉnh thành trên cả nước để đáp ứng nhu cầu lao động của các
ngành kỹ thuật trong tương lai. Bên cạnh đó, đào tạo ĐH và sau ĐH cũng cần được cải thiện theo
hướng tập trung vào chất lượng thay vì số lượng. Cần đổi mới phương thức giảng dạy theo hướng
thực hành nhiều hơn, tạo điều kiện cho các chương trình trao đổi quốc tế, giúp sinh viên có cơ hội
tiếp cận với các môi trường nghiên cứu tiên tiến và hiện đại. Ngoài ra, cần tăng cường thu hút các
giảng viên, nhà nghiên cứu uy tín nước ngoài đến giảng dạy và làm việc tại các trường ĐH trong
cả nước. Thêm vào đó, cần