Cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, qui mô và chất lượng. Trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển. Như vậy hệ thống ngân hàng thương mại thực sự là ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, đóng góp to lớn vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế xã hội ở nước ta.
Hiện nay ở nước ta thị trường chứng khoán chưa phải là kênh dẫn vốn hiệu quả và chủ yếu, vậy nên vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế vẫn phải dựa chủ yếu vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại với lợi thế về mạng lưới, đối tượng khách hàng của các ngân hàng thương mại không phải chỉ là các công ty, doanh nghiệp mà còn có thành phần tư nhân hộ gia đình. Một mặt họ là những người cho ngân hàng vay tiền, một mặt họ cũng chính là những người vay tiền của hệ thống NHTM. Do vậy hệ thống NHTM trở thành kênh cung ứng vốn hữu hiệu cho nền kinh tế trong gian đoạn hiện nay. Từ đó vấn đề nghiên cứu chất lượng hoạt động tín dụng thật sự trở thành vấn đề đang rất được quan tâm.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Tín dụng NHTM và chất lượng tín dụng ngắn hạn NHTM trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng chất lượng hoạt động tính dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương.
71 trang |
Chia sẻ: lazy | Lượt xem: 2257 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, qui mô và chất lượng. Trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển. Như vậy hệ thống ngân hàng thương mại thực sự là ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, đóng góp to lớn vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế xã hội ở nước ta.
Hiện nay ở nước ta thị trường chứng khoán chưa phải là kênh dẫn vốn hiệu quả và chủ yếu, vậy nên vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế vẫn phải dựa chủ yếu vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại với lợi thế về mạng lưới, đối tượng khách hàng của các ngân hàng thương mại không phải chỉ là các công ty, doanh nghiệp mà còn có thành phần tư nhân hộ gia đình. Một mặt họ là những người cho ngân hàng vay tiền, một mặt họ cũng chính là những người vay tiền của hệ thống NHTM. Do vậy hệ thống NHTM trở thành kênh cung ứng vốn hữu hiệu cho nền kinh tế trong gian đoạn hiện nay. Từ đó vấn đề nghiên cứu chất lượng hoạt động tín dụng thật sự trở thành vấn đề đang rất được quan tâm.
Do phạm trù nghiên cứu chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng rất rộng nên với thời gian và năng lực có hạn, em chỉ tập trung vào nghiên cứu vấn đề chất lượng tín dụng ngắn hạn. Qua đó tìm hiểu thực trạng, những kết quả đạt được và những hạn chế tồn tại. Từ đó để tìm ra những nguyên nhân của hạn chế đó cũng như tìm ra những biện pháp để khắc phục hạn chế đó.
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu cùng với việc được xem xét, tìm hiểu, quan sát tình hình thực tế tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương trong thời gian thực tập vừa qua. Đặc biệt với sự giúp đỡ, tạo điều kiện của ban lãnh đạo ngân hàng, các cô chú, anh chị ở các phòng ban đã giúp em hoàn thành bản chuyên đề tốt nghiệp với đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương”
Em xin gửi lời cám ơn tới các thầy cô giáo trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân - những người đã cung cấp cơ sở kiến thức về kinh tế và xã hội, Tới ThS. Phan Hữu Nghị, người đã trực tiếp hướng dẫn để em có thể hoàn thành bản đề án tốt nghiệp này.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
- Chương I: Tín dụng NHTM và chất lượng tín dụng ngắn hạn NHTM trong nền kinh tế thị trường.
- Chương II: Thực trạng chất lượng hoạt động tính dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương.
- Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương.
Chương I
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Tín dụng ngân hàng thương mại.
1.1.1. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển tín dụng NHTM.
Lịch sử ra đời và phát triển của tín dụng gắn liền với lịch sử phát triển của phương thức sản xuất hàng hóa. Hình thức sơ khai nhất của tín dụng là tín dụng nặng lãi. Người đi vay sẽ không những phải trả vốn mà còn phải trả phần lãi rất lớn cho người cho vay. Hình thức này chỉ tồn tại ở xã hội trước tư bản và mục đích của nó là để duy trì cuộc sống cho những người cần vay.
Đến phương thức tư bản chủ nghĩa tín dụng nặng lãi không còn phù hợp. Sản xuất phát triển, đi vay không những để cho tiêu dùng mà còn để phát triển sản xuất. Lãi suất cho vay cũng phải thấp hơn do có nhiều người cho vay hơn và để cho nhà tư bản đi vay đảm bảo việc sản xuất có lợi nhuận. Vay mượn không chỉ đơn thuần là tiền mà còn là các máy móc thiết bị, tư liệu sản xuất... Từ đó lãi suất không còn do người cho vay đơn phương áp đặt nữa mà phải có sự thỏa thuận giữa người vay và người cho vay.
Từ đó ta có thể hiểu tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Đó là quan hệ giữa hai bên trong đó một bên chu cấp tiền hay hàng hóa, dịch vụ cho bên kia và bên kia cam kết sẽ thanh toán lại trong tương lai gồm cả khoản nợ gốc và khoản lãi.
Cùng với sự phát triển của sản xuất và hàng hóa, tín dụng ngày càng có những phát triển cả về nội dung và hình thức. Và hình thái phát triển cao nhất là tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tác hoàn trả (cả vốn và lãi) sau một thời gian nhất định.
Tín dụng ngân hàng đã thực sự mở rộng các mối quan hệ, thay thế quan hệ giữa các cá nhân với nhau bằng mối quan hệ giữa các cá nhân với tổ chức, giữa các tổ chức với nhau và cao nhất là quan hệ tín dụng quốc tế.
Tuy tín dụng ngân hàng là hình thức phát triển cao của quan hệ tín dụng nhưng nó vẫn giữ nguyên được những bản chất ban đầu của quan hệ tín dụng. Vẫn là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi vào một thời gian nhất định trong tương lai nhưng trong đó một bên là ngân hàng thương mại và một bên là các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội hay là tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng thương mại khác.
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngắn hạn ngân hàng thương mại.
Tín dụng ngân hàng là một hình thức phát triển cao của tín dụng. Nó cơ bản giữ được những bản chất chung của tín dụng, ngoài ra còn có một số đặc điểm sau:
Rủi ro tín dụng ngắn hạn thấp. Do khoản vay chỉ cung cấp trong thời gian ngắn vì vậy ít chịu ảnh hưởng của sự biến động không thể lường trước của nền kinh tế như các khoản tín dụng trung và dài hạn. Ngoài ra, các khoản vay được cung cấp cho các đơn vị sản xuất kinh doanh theo hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá, dựa trên tài sản bảo đảm, bảo lãnh chắc chắn sẽ có khoản thu bù đắp trong tương lai vì vậy rủi ro mang đến thường thấp.
Lãi suất thấp: lãi suất cho vay được hiểu là khoản chi phí người đi vay trả cho nhu cầu sử dụng tiền tạm thời của người khác. Chính vì rủi ro mang lại của khoản vay thường không cao do đó lãi suất người đi vay phải trả thông thường nhỏ.
Vốn tín dụng ngắn hạn mà ngân hàng cấp cho khách hàng thường được khách hàng dùng để mua nguyên vật liệu, trả lương, bổ xung vốn lưu động nên số vốn vay thường là nhỏ.
Thời hạn thu hồi vốn nhanh, số vòng quay vốn tín dụng nhiều: Vốn tín dụng ngắn hạn thường được sử dụng để bù đắp những thiếu hụt trong ngắn hạn như đảm bảo cân bằng ngân quỹ, đối phó với chênh lệch thu chi trong ngắn hạn... Thông thường những thiếu hụt này chỉ mang tính tạm thời hay mang tính thời điểm, sau đó khoản thiếu hụt này sẽ sớm thu lại dưới hình thái tiền tệ vì vậy thời gian thu hồi vốn sẽ nhanh.
Hình thức phong phú: Để đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của khách hàng, phân tán rủi ro, đồng thời để tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường tín dụng, các ngân hàng thương mại không ngừng phát triển các hình thức tín dụng ngắn hạn của mình. Điều đó đã làm cho các hình thức tín dụng ngắn hạn rất phong phú như: nghiệp vụ ứng trước, nghiệp vụ thấu chi, nghiệp vụ chiết khấu....
1.2. Chất lượng Tín dụng ngắn hạn Ngân hàng thương mại.
Trong quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng, dù môi trường kinh doanh có thay đổi nhưng hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt động cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động của các ngân hàng thương mại và là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Cùng với quá trình phát triển của thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng được mở rộng và phát triển đa dạng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Do đó quan hệ tín dụng cũng được mở rộng cả về đối tượng và quy mô làm cho hoạt động tín dụng của NHTM càng trở nên khó khăn. Để hệ thống ngân hàng thương mại thể tồn tại và đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt cũng như để phục vụ tốt hơn cho nền kinh tế thì các NHTM phải nâng cao chất lượng các khoản tín dụng.
1.2.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng ngắn hạn.
Ở phần trên ta đã có khái niệm chung về “Tín dụng ngân hàng thương mại”. Căn cứ vào thời hạn của khoản tín dụng- kể từ khi cấp tín dụng đến thời điểm hoàn trả ta có thể chia thành hai hình thức tín dụng. Đó là tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn. Do khả năng và thời gian có hạn nên trong bản Đề án tốt nghiệp này em chỉ đề cập đến vấn đề “Tín dụng ngắn hạn”.
Ở mỗi quốc gia, thời hạn để xác định khoản tín dụng ngắn hạn là khác nhau. Ở Mĩ người ta quan niệm những khoản tín dụng ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn dưới 3 năm. Nhưng ở Việt Nam, theo Quyết định số 324 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tín dụng ngắn hạn là hình thức mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Thời hạn đối với tín dụng ngắn hạn được tổ chức tín dụng khách hàng thoả thuận tối đa là 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
Từ đó ta có thể hiểu chất lượng tín dụng ngắn hạn là sự đáp ứng yêu cầu trước mắt (thường là một năm) của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của NHTM. Để có được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng ngắn hạn này phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín.
Chất lượng tín dụng ngắn hạn được thể hiện:
Đối với khách hàng: tín dụng ngắn hạn phải phù hợp với mục đích sử dụng trong ngắn hạn của khách hàng, với lãi suất và kì hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, nhưng vẫn đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng.
Đối với các ngân hàng thương mại: phạm vi, mức độ, giới hạn của khoản tín dụng ngắn hạn phải phù hợp với thực lực của ngân hàng, đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường, cũng như đảm bảo được nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn và có lãi.
Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy quá trình tập trung và tích tụ sản xuất, giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế.
Vậy ta phải hiểu thế nào là khoản tín dụng ngắn hạn có chất lượng cao ?
Xét trên khía cạnh nền kinh tế, căn cứ vào sự thể hiện của chất lượng tín dụng ta có thể hiểu khoản tín dụng ngắn hạn có chất lượng cao là khi khoản vốn huy động được ngân hàng sử dụng đúng mục đích, tạo được số tiền lớn, ngân hàng thu được cả vốn và lãi. Còn doanh nghiệp vừa trả được nợ ngân hàng đúng hạn vừa bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Như vậy, ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế, vừa đem lại hiệu quả xã hội.
Và ngược lại một khoản tín dụng ngắn hạn không có chất lượng, hay chất lượng không cao là khi khách hàng không sử dụng khoản tín dụng đúng theo mục đích ban đầu, không tạo ra số tiền để trả lãi, gốc đúng thời hạn cho ngân hàng, không đem lại hiệu quả kinh tế xã hội nói chung.
Hiểu đúng bản chất, phân tích, đánh giá, xác định chính xác các nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn sẽ giúp ngân hàng tìm được các biện pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường.
1.2.2. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường thì hoạt động tín dụng là kênh dẫn vốn chủ yếu để thúc đẩy tiến trình phát triển của cả xã hội. Với đòi hỏi nền kinh tế xã hội phát triển ngày càng mạnh mẽ thì vấn đề chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng ngắn hạn nói riêng luôn và sẽ dành được sự quan tâm lớn.
1.2.2.1. Đối với nền kinh tế xã hội:
Tín dụng ngắn hạn và nền kinh tế xã hội có mối quan hệ mật thiết hai chiều. Tín dụng ngắn hạn góp phần làm lành mạnh hóa nền kinh tế xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế xã hội phát triển, ngược lại để hoạt động tín dụng ngắn hạn có chất lượng thì đỏi hỏi nền kinh tế xã hội phải ổn định, phải có cơ chế phù hợp, có sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả giữa các cấp các ngành.
- Chất lượng tín dụng ngắn hạn được bảo đảm và nâng cao là điều kiện cho Ngân hàng làm tốt vai trò trung gian tín dụng- cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư- trong nền kinh tế, Từ đó điều hoà nguồn vốn cho đầu tư ngắn hạn hợp lý, làm xã hội bớt được lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm được khó khăn cho những nơi thiếu vốn.
- Chất lượng tín dụng ngắn hạn được nâng cao cũng sẽ tạo điều kiện để NHTM làm tốt vai trò trung tâm thanh toán của nền kinh tế thị trường. Vì khi chất lượng tăng lên nghĩa là các khoản tín dụng được thực hiện đúng theo thời hạn, do đó số vòng quay của vốn tín dụng tăng lên với một lượng tiền trong lưu thông là không đổi. Góp phần mở rộng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Qua đó tiết kiệm chi phí phát hành tiền.
- Tín dụng là một trong những công cụ để Đảng và Nhà nước thực hiện các chủ trương chính sách về phát triển kinh tế xã hội theo ngành, lĩnh vực. Nhờ chất lượng tín dụng nâng cao nghĩa là sự phân tích, đánh giá khả năng phát triển của các đối tượng để ra các quyết định đầu tư đúng đắn để khai thác khả năng tiềm tàng của tài nguyên, lao động, đảm bảo cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển cân đối giữa các ngành nghề, các khu vực trong cả nước.
- Nâng cao chất lượng tín dụng còn góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như ta đã biết về khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại. Đó là thông qua việc cho vay chuyển khoản, thanh toán không dùng tiền mặt, các ngân hàng thương mại có khả năng mở rộng số tiền ghi sổ lên rất nhiều lần so với số tiền thực tế mà Nhà nước bỏ vào lưu thông. Như vậy khi chất lượng tín dụng được nâng lên tạo khả năng giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, góp phần hạn chế lạm phát, ổn định tiền tệ.
- Cuối cùng chất lượng tín dụng nâng cao góp phần làm lành mạnh hóa quan hệ tín dụng. Giảm thiểu rồi đi đến xóa bỏ tình trạng cho vay nặng lãi, tín dụng đen đang rất phổ biến hiện nay. Mà gắn liền với tình trạng tín dụng không lành mạnh này là những vấn đề xã hội phức tạp.
1.2.2.2. Đối với khách hàng:
- Cung cấp kịp thời nhu cầu về vốn cho khách hàng: Chất lượng tín dụng cao sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng thị trường, cung cấp tín dụng kịp thời, đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Lành mạnh hoá tình hình tài chính của khách hàng: Để đảm bảo chất lượng tín dụng thì Ngân hàng tiến hành việc kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn tín dụng của khách hàng qua đó cùng với khách hàng uốn nắn và chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót trong hoạt động tài chính và kinh doanh của họ. Do vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng góp phần phát triển chất lượng sản xuất kinh doanh cũng như làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của khách hàng.
1.2.2.3. Đối với ngân hàng thương mại:
Nâng cao Chất lượng tín dụng là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của hệ thống Ngân hàng thương mại:
- Nâng cao chất lượng tín dụng tức là tăng khả năng quay vòng vốn tín dụng, qua đó mở rộng được các hình thức dịch vụ cung cấp cho khách hàng cũng như mở rộng quy mô vốn tín dụng cho một khách hàng. Như vậy không những duy trì được mối quan hệ với nhũng khách hàng truyển thống mà còn mở rộng, thu hút thêm những khách hàng mới. Đó cũng là cách để các ngân hàng thương mại mở rộng thị trường, nâng cao được lợi nhuận.
- Chất lượng tín dụng nâng cao sẽ giảm được chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, và đặc biệt là giảm được những chi phí, thiệt hại rất lớn do không thu hồi được khoản tín dụng. Như vậy sẽ gia tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Tăng được lợi nhuận cho hệ thống ngân hàng thương mại.
Qua những phân tích trên ta thấy nâng cao chất lượng tín dụng có ý nghĩa thật to lớn. Đối với ngân hàng thì đó là vì sự tồn tại, phát triển. Với khách hàng thì đó là khả năng mở rộng sản xuất. Xét trên tầm vĩ mô thì nâng cao chất lượng tín dụng là để đảm bảo cho nền kinh tế xã hội luôn phát triển ổn đinh. Với sự phát triển và sản xuất lưu thông hàng hoá ngày càng tăng, hoạt động tín dụng cần phải được phát triển tới mức độ nào đó sao cho phù hợp, nhằm đáp ứng được những nhu cầu giao dịch cũng ngày càng tăng trong xã hội. Vì thế, việc nâng cao chất lượng tín dụng không những luôn được coi là chiến lược hàng đầu của các ngân hàng thương mại mà còn của các nhà chức trách về kinh tế xã hội.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn ngân hàng thương mại.
Qua những vấn đề được phân tích ở trên, ta thấy rõ sự cần thiết của việc củng cố tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của các Ngân hàng Thương mại vì sự tồn tại cũng như sự phát triển lâu dài của hệ thống Ngân hàng Thương mại nói riêng và cho nền kinh tế xã hội nói chung. Để thực hiện tốt công việc này, việc đi sâu phân tích, đánh giá để thấy rõ được những nhân tố chủ yếu có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn là điều không thể thiếu và luôn luôn phải được cân nhắc để tìm ra những hướng khắc phục hiệu quả.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Ta có thể chia thành hai nhóm nhân tố là nhóm nhân tố bên ngoài và nhóm nhân tố bên trong.
1.3.1. Nhóm nhân tố bên ngoài:
Gồm 3 nhóm nhân tố là kinh tế, xã hội và pháp lý.
* Nhóm nhân tố kinh tế:
- Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng có hiệu quả cao thì nền kinh tế phải ổn định. Hoạt động tín dụng là hoạt động “Vay để cho vay”. Khi nền kinh tế phát triển ổn định thì các doanh nghiệp mới hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, khi đó nhu cầu về vốn tín dụng của doanh nghiệp mới thực sự là ổn định và an toàn. Mặt khác khi đó ngân hàng cũng có thể huy động được nhiều nguồn vốn mở rộng hoạt động cho vay, phục vụ cho việc phát triển kinh tế.
- Ngoài ra một nền kinh tế ổn định tạo điều kiện cho giá cả luôn giữ ở mức ổn định, lành mạnh, tránh được tình trạng lạm phát hay giảm phát và tránh cho ngân hàng khỏi phải chịu những thiệt hại lớn do mất giá của đồng tiền, các doanh nghiệp không rơi vào khủng hoảng dẫn đến khó khăn không trả được nợ tín dụng. Từ đó cũng tránh được sự giảm thấp chất lượng tín dụng.
Tuy nhiên có một thực tế là hầu hết các quốc gia đều áp dụng mô hình “ Mở rộng Ngân sách” , tức là các quốc gia này duy trì một mức lạm phát vừa phải để kích thích đầu tư. Do vậy đây là vấn đề có tính hai mặt. Một mặt là lạm phát sẽ làm phát sinh những rủi ro cho việc hoàn trả khoản nợ tín dụng. Nhưng mặt khác, lạm phát kích thích đầu tư sẽ khiến nhu cầu về vốn tín dụng tăng, tạo điều kiện kinh doanh tín dụng cho các ngân hàng thương mại, khi đó sẽ có cơ hội tăng được lợi nhuận.
- Yếu tố Vốn nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn: Hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia kém phát triển đều gặp khó khắn về vốn để đầu tư phát triển kinh tế. Do vậy thường phải sử dụng “Vốn nước ngoài” để bù đắp. Nhưng việc huy động quá mức vốn nước ngoài sẽ làm mất cân đối tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế, gây sức ép về lạm phát cho nền kinh tế, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn.
- Nhân tố Chu kỳ phát triển kinh tế cũng tác động lớn tới chất lượng tín dụng ngắn hạn. Trong thời kỳ kinh tế hưng thịnh, sản xuất kinh doanh sẽ được mở rộng, dẫn đến nhu cầu về vốn tăng, giảm bớt những rủi ro tín dụng, từ đó hiệu quả tín dụng ngắn hạn cũng tăng lên. Tuy nhiên điều gì sẽ xảy đến với chất lượng tín dụng ngắn hạn nếu các ngân hàng thương mại cạnh tranh mở rộng khách hàng. Khi đó để dành các khách hàng về phía mình các ngân hàng thường phải hạ thấp yêu cầu với khách hàng khi họ có nhu cầu cấp tín dụng, đây chính là nguyên nhân khiến cho các khoản tín dụng ngắn hạn gặp nhiều rủi ro hơn, chất lượng tín dụng ngắn hạn qua đó cũng giảm xuống.
Khi nền kinh tế rơi vào khó khăn, khủng hoảng, nền sản xuất bị trì trệ khiến nhu cầu tín dụng giảm do các doanh nghiệp thấy sẽ thật là mạo hiểm nếu mở rộng sản xuất bởi nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm, sức mua kém và hàng hóa sẽ bị tồn kho, lợi nhuận giảm hoặc thậm chí doanh nghiệp có thể bị phá sản bởi không duy trì được sản xuất và không trả được nợ ngân hàng. Trong khi hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn, các ngân hàng vẫn phải trả tiền lãi để huy động nguồn vốn trước đó. Qua đó ta thấy chất lượng tín dụng ở giai đoạn này thường là thấp.
- Một trong những nhân tố kinh tế có