Hiệu quả kinh doanh là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, hiệu quả kinh doanh càng có ý nghĩa quan trọng đối với các NHTM và nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề cực kỳ bức xúc. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề được các NHTM đặc biệt chú trọng tại các NHTM, trong đó có Ngân hàng Công thương (NHCT) Việt Nam và Chi nhánh NHCT trên địa bàn tỉnh An Giang.
Là một bộ phận của NHCT Việt Nam, sau 20 năm thành lập, Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang đã có bước phát triển đáng kể. Tổng nguồn vốn hiện nay gấp 44 lần so với khi mới thành lập (1988), dư nợ cho vay và đầu tư tăng gấp 62 lần. Hiệu quả hoạt động kinh của Chi nhánh cũng đã được nâng cao, các chỉ tiêu về lợi nhuận, hiệu suất sử dụng vốn tăng lên đáng kể, đặc biệt là từ năm 2006 đến nay.
Tuy vậy, các chỉ tiêu về hiệu quả của Chi nhánh còn nhiều hạn chế, tỷ suất lợi nhuận chưa cao, tăng trưởng lợi nhuận chưa vững chắc, các chỉ tiêu hiệu quả khác còn nhiều hạn chế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia, Chi nhánh phải cạnh tranh với nhiều ngân hàng khác, thị phần cho vay của Chi nhánh có nguy cơ bị thu hẹp, hiệu quả có nguy cơ giảm thấp và thiếu bền vững. Trước thực tế đó, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một trong những vấn đề mấu chốt cho sự tồn tại và phát triển của Chi nhánh. Do vậy, việc nghiên cứu để tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang là vấn đề bức xúc, đồng thời có ý nghĩa lâu dài cả về lí luận và thực tiễn. Đó cũng là lý do chủ yếu của việc lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh An Giang”.
83 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1144 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệu quả kinh doanh là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, hiệu quả kinh doanh càng có ý nghĩa quan trọng đối với các NHTM và nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề cực kỳ bức xúc. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề được các NHTM đặc biệt chú trọng tại các NHTM, trong đó có Ngân hàng Công thương (NHCT) Việt Nam và Chi nhánh NHCT trên địa bàn tỉnh An Giang.
Là một bộ phận của NHCT Việt Nam, sau 20 năm thành lập, Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang đã có bước phát triển đáng kể. Tổng nguồn vốn hiện nay gấp 44 lần so với khi mới thành lập (1988), dư nợ cho vay và đầu tư tăng gấp 62 lần. Hiệu quả hoạt động kinh của Chi nhánh cũng đã được nâng cao, các chỉ tiêu về lợi nhuận, hiệu suất sử dụng vốn… tăng lên đáng kể, đặc biệt là từ năm 2006 đến nay.
Tuy vậy, các chỉ tiêu về hiệu quả của Chi nhánh còn nhiều hạn chế, tỷ suất lợi nhuận chưa cao, tăng trưởng lợi nhuận chưa vững chắc, các chỉ tiêu hiệu quả khác còn nhiều hạn chế.
Trong điều kiện kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia, Chi nhánh phải cạnh tranh với nhiều ngân hàng khác, thị phần cho vay của Chi nhánh có nguy cơ bị thu hẹp, hiệu quả có nguy cơ giảm thấp và thiếu bền vững. Trước thực tế đó, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một trong những vấn đề mấu chốt cho sự tồn tại và phát triển của Chi nhánh. Do vậy, việc nghiên cứu để tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang là vấn đề bức xúc, đồng thời có ý nghĩa lâu dài cả về lí luận và thực tiễn. Đó cũng là lý do chủ yếu của việc lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh An Giang”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có những công trình khoa học, các bài nghiên cứu đã được công bố như:
- Phát triển dịch vụ ngân hàng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam - thực trạng và giải pháp, Trần Xuân Hiệu, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
- Năng lực cạnh tranh của các NHTM trong xu thế hội nhập, PGS.TS Nguyễn Thị Quy, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Công thương Việt Nam, Lê Thị Thiên Lý, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006.
- Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh An Giang, Trần Thị Thu Nguyệt, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
Trong các công trình nghiên cứu trên, vấn đề hiệu quả và nâng cao hiệu quả kinh doanh đã được tiếp cận dưới nhiều gốc độ khác nhau, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể về mặt lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang trong điều kiện mới.
Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu quả kinh doanh của NHTM trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT trên địa bàn tỉnh An Giang từ năm 2003 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang trong điều kiện mới.
Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là:
- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lí luận về hiệu quả kinh doanh của NHTM trong điều kiện kinh tế thị trường.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang trong điều kiện mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, kế thừa một cách có chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan.
Ngoài phương pháp luận duy vật biện chứng, việc nghiên cứu luận văn trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản và điển hình được sử dụng trong quá trình nghiên cứu như: phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh… để phân tích và làm rõ những vấn đề của luận văn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá có chọn lọc một số vấn đề lý luận về hiệu quả kinh doanh của NHTM.
- Đánh giá đúng thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang, chỉ rõ những hạn chế, trở ngại đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHCT và những nguyên nhân chủ yếu.
- Đề xuất được các giải pháp thiết thực và khả thi về nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động chủ yếu
NHTM là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân, bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên. NHTM là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến trong nền kinh tế. Sự có mặt của NHTM trong hầu hết các mặt hoạt động của nền kinh tế, xã hội đã chứng minh rằng, ở đâu có một hệ thống NHTM phát triển, thì ở đó sẽ có sự phát triển với tốc độ cao của nền kinh tế, xã hội và ngược lại.
Theo Điều 20 Khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín dụng (12/12/1997): NHTM là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán.
Nghị định số 49/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/9/2000 qui định: "NHTM là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước" [8].
Theo Điều 20 Khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín dụng (sữa đổi, bổ sung ngày 24/06/2004):
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cứng các dịch vụ thanh toán [27].
Như vậy, có thể nói NHTM là một loại định chế tài chính trung gian cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội được huy động, tập trung lại với số lượng đủ lớn để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm mục đích phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Các NHTM thực hiện rất nhiều hoạt động, trong đó có các hoạt động chủ yếu như sau [13]:
Thứ nhất, tạo lập nguồn vốn. Nguồn vốn của NHTM gồm vốn điều lệ, các quỹ, vốn huy động và vốn đi vay.
Vốn điều lệ là nguồn vốn ban đầu khi ngân hàng mới bắt đầu đi vào hoạt động và được ghi vào bản điều lệ của ngân hàng. Đối với lĩnh vực ngân hàng, vốn điều lệ đạt mức tối thiểu theo qui định của pháp luật (vốn pháp định). Tuỳ theo loại hình ngân hàng mà vốn điều lệ có thể hình thành từ những nguồn khác. Đối với NHTM quốc doanh, vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp phát.
Vốn điều lệ là bộ phận chủ yếu của vốn tự có trong NHTM. Ở Việt Nam, theo Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 thì vốn tự có của NHTM gồm: vốn tự có cơ bản và vốn tự có bổ sung [23].
Vốn tự có cơ bản (vốn cấp 1): Vốn điều lệ thực có (vốn đã được cấp, vốn đã góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia.
Vốn tự có bổ sung (vốn cấp 2): phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định và của các loại chứng khóan đầu tư được định giá lại, trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành có thời hạn dài.
Các quỹ của ngân hàng được hình thành khi ngân hàng đã đi vào hoạt động, bao gồm các quỹ trích từ lãi ròng hàng năm của ngân hàng như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, các quỹ dự phòng (tài chính, trợ cấp mất việc làm), quỹ đầu tư phát triển, quỹ khác (khen thưởng, phúc lợi…). Ngoài ra, còn có các quỹ được hình thành bằng cách trích và tính vào chi phí hoạt động của ngân hàng như: quỹ khấu hao cơ bản, sữa chữa tài sản, quỹ dự phòng để xử lý rủi ro… Các quỹ này có chức năng: cũng cố và gia tăng năng lực bảo vệ của vốn tự có của ngân hàng; bù đắp những thất thoát trong hoạt động tín dụng; chống đỡ thiệt hại khi rủi ro phát sinh.
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu sử dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM, chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của NHTM. Nguồn vốn huy động gồm có: Tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng (còn được gọi là tiền gửi giao dịch, tiền gửi thanh toán). Tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức và cá nhân. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Nguồn vốn huy động qua phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi…
Nguồn vốn đi vay là nguồn vốn vay của NHNN, các NHTM, các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế.
Nguồn vốn khác bao gồm các nguồn vốn tiếp nhận từ NSNN để thực hiện các chương trình, dự án theo kế hoạch tập trung của Nhà nước; vốn tiếp nhận để cho vay uỷ thác; vốn chiếm dụng của khách hàng trong quá trình thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt…
Thứ hai, hoạt động sử dụng vốn. Đây là một hoạt động cơ bản của các NHTM. Hoạt động này gồm: cấp tín dụng, đầu tư tài chính, thiết lập dự trữ, các hoạt động sử dụng vốn khác.
Cấp tín dụng bao gồm các nghiệp vụ cho vay (ngắn, trung và dài hạn), chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bảo đảm thanh toán…
Đầu tư tài chính là hoạt động mà NHTM sử dụng các nguồn vốn ổn định để thực hiện các hình thức đầu tư nhằm kiếm lời và chia sẽ rủi ro với nghiệp vụ tín dụng. Các hình thức đầu tư tài chính bao gồm: Góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của các công ty, xí nghiệp và các tổ chức tín dụng khác. Mua chứng khoán và các giấy tờ có giá trị để hưởng lợi.
Thiết lập dự trữ là việc các NHTM dành một phần vốn để dự trữ nhằm đáp ứng những yêu cầu như: duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của NHNN; thực hiện các lệnh rút tiền và thanh toán chuyển khoản của khách hàng; chi trả các khoản tiền gửi đến hạn, chi trã lãi; đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý trong ngày của khách hàng; thực hiện các khoản chi tiêu hàng ngày tại ngân hàng…
Ngoài ra, còn một số hoạt động sử dụng vốn khác như: mua sắm trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho hoạt động kinh doanh, xây dựng trụ sở làm việc ngân hàng, hệ thống kho bãi và các chi phí khác.
Thứ ba, cung cấp dịch vụ ngân hàng. Đây là các sản phẩm dịch vụ mà khi NHTM cung cấp cho khách hàng sẽ nhận được các khoản hoa hồng và lệ phí như: dịch vụ ngân quỹ; dịch vụ uỷ thác; tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng; nhận quản lý tài sản quý, giấy tờ có giá theo yêu cầu của khách hàng; kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ; mua bán hộ chứng khoán, phát hành hộ cổ phiếu, trái phiếu cho các công ty, xí nghiệp; tư vấn tài chính, đầu tư; bảo lãnh tín dụng, trong đó NHTM cam kết đảm bảo hoàn trả khoản vay của khách hàng cho người thứ ba là người cho vay; các hợp đồng trao đổi lãi suất, trong đó NHTM cam kết trao đổi các khoản thanh toán lãi của chứng khoán nợ với một bên khác; các hợp đồng tài chính tương lai và hợp đồng quyền chọn lãi suất, trong đó NHTM đồng ý giao hay nhận những chứng khoán từ một bên khác tại một mức giá được bảo đảm; hợp đồng cam kết cho vay, trong đó NHTM cam kết cho vay tối đa tới một số vốn nhất định trước khi hợp đồng hết hiệu lực; các hợp đồng tỷ giá hối đoái, trong đó NHTM đồng ý giao hay nhận một lượng ngoại tệ nhất định.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại
Hoạt động của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán cho khách hàng vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy, hiệu quả kinh doanh là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các NHTM.
Hiệu quả kinh doanh nói chung là tỷ lệ giữa kết quả đầu ra so với chi phí đầu vào. Hiệu quả kinh doanh của NHTM thường được đo bằng các chỉ tiêu cơ bản như: Lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận và các chỉ tiêu trung gian khác.
Do đặc thù của hoạt động ngân hàng nên hiệu quả kinh doanh của NHTM có một số đặc điểm như sau:
Một là, hiệu quả kinh doanh ngân hàng gắn với đặc thù của hoạt động ngân hàng - kinh doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Đây là một lĩnh vực rất nhạy cảm, chịu tác động mạnh của nhiều yếu tố đặc biệt là các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội. Do vậy, kết quả hoạt động và hiệu quả kinh doanh ngân hàng phản ánh sự tác động tổng hợp các yếu tố đó. Chẳng hạn, bên cạnh các chỉ tiêu hiệu quả của ngân hàng như tỷ suất lợi nhuận, hiệu quả hoạt động ngân hàng còn thể hiện ở chổ góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo…
Hai là, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng là hiệu quả của một ngành dịch vụ hiện đại với sự quay vòng vốn nhanh nên các chỉ tiêu về suất lợi nhuận/doanh số… có thể không cao như một số ngành sản xuất.
Ba là, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng gắn với hoạt động huy động và sử dụng vốn vay, vốn của người khác. Do vậy, đòi hỏi huy động và sử dụng vốn phải cao.
Bốn là, hoạt động ngân hàng gắn với hoạt động của doanh nghiệp và dân cư. Do vậy, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào năng lực kinh doanh và hoạt động của các chủ thể này. Chẳng hạn, nếu các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả thì ngân hàng có thể tăng mức cho vay, hiệu quả kinh doanh cao hơn.
1.1.3. Các tiêu chí xác định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động kinh doanh của NHTM mục tiêu cuối cùng là phải đạt được lợi nhuận cao nhất, lợi nhuận càng cao chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động kinh doanh càng có hiệu quả. Muốn biết được NHTM đó hoạt động kinh doanh hiệu quả ra sao thì phải xem xét qua một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh như sau:
1.1.3.1. Lợi nhuận sau thuế
Lợi nhuận sau thuế (LNST) được tính theo công thức sau [13]:
LNST
=
Thu từ lãi
–
Chi từ lãi
+
Thu khác
–
Chi khác
–
Thuế TN
Lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận ròng) là chỉ tiêu phản ánh tập trung nhất mức sinh lợi của ngân hàng. Nhìn vào công thức trên ta thấy nếu mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi từ lãi cao thì lãi ròng lớn, và ngược lại. Trong hoạt động kinh doanh của NHTM, mức chênh lệch này có xu hướng giảm nên chênh lệch giữa thu khác và chi khác đóng vai trò quan trọng. Điều này cho thấy xu hướng hoạt động kinh doanh của NHTM có xu hướng chú trọng các sản phẩm dịch vụ.
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lãi của ngân hàng hay còn gọi là mức lãi ròng.
1.1.3.2. Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận
trên tài sản sinh lợi
=
Lợi nhuận sau thuế
×
100%
Tổng tài sản sinh lợi
Chỉ tiêu này nói lên tỷ lệ lợi nhuận do tài sản có sinh lời tạo ra lợi nhuận được các nhà quản lý ngân hàng rất chú ý vì nó báo trước khả năng sinh lời của NHTM. Chỉ tiêu này biểu hiện bằng một số chỉ tiêu cụ thể như: lợi nhuận trên tổng tài sản, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu...
- Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)
ROA
=
Lợi nhuận sau thuế
×
100%
Tổng tài sản bình quân
ROA là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý của ngân hàng, cho thấy khả năng của NHTM trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng tài sản có bình quân mang lại bao nhiêu đồng lãi ròng cho ngân hàng.
ROA xác định hiệu quả kinh doanh của 1 đồng tài sản. ROA càng cao thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng đó càng tốt.
- Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE
=
Lợi nhuận sau thuế
×
100%
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu ROE đo lường chất lượng hoạt động của một ngân hàng. Hệ số ROE phân tích lợi nhuận kiếm được từ đơn vị vốn đầu tư, vốn của một NHTM cổ phần được hình thành từ vốn cổ phần hoàn toàn hoặc gồm một phần từ vốn cổ phần còn một phần các chứng từ có giá như: tín phiếu, hoặc giấy nhận nợ…
Hệ số ROE quy định giá trị chứng khoán, nó cho các cổ đông biết khả năng sử dụng vốn cổ phần của một ngân hàng nên nó có ý nghĩa quan trọng đối với các cổ đông. Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn chủ sỡ hữu mang lại bao nhiêu đồng lãi ròng cho ngân hàng.
Mối quan hệ giữa ROE và ROA như sau:
ROE
=
Lợi nhuận ròng
×
Tổng tài sản
Tổng tài sản
Tổng vốn chủ sở hữu
Hay:
ROE
=
ROA
×
Tổng tài sản
Tổng vốn chủ sở hữu
Mối quan hệ trên cho thấy thu nhập của một ngân hàng rất nhạy cảm với phương thức tài trợ tài sản (sử dụng nhiều nợ hơn hay nhiều vốn chủ sở hữu hơn). Một ngân hàng có ROA thấp vẫn có thể đạt ROE ở mức cao nếu như sử dụng nhiều nợ (gồm cả tiền gửi của khách hàng) và sử dụng tối thiểu vốn chủ sở hữu trong quá trình tài trợ tài sản.
- Các chỉ tiêu trung gian gồm: như chênh lệch lãi bình quân, tỷ lệ tài sản sinh lời. Cụ thể như sau:
+ Chênh lệch lãi suất bình quân (chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra): là chỉ tiêu truyền thống đánh giá thu nhập của ngân hàng, đo lường hiệu quả đối với hoạt động trung gian của ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay, đồng thời đo lường mức độ cạnh tranh trong thị trường của ngân hàng. Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, chênh lệch lãi suất bình quân của ngân hàng sẽ giảm khi cường độ cạnh tranh tăng lên, buộc NHTM phải tìm cách bù đắp mức chênh lệch lãi suất bị mất đi bằng cách thu phí từ các sản phẩm dịch vụ mới.
Chênh lệch lãi suất bình quân
=
Thu từ lãi
×
Tổng chi phí lãi
Tổng tài sản sinh lời
Tổng nguồn phải trả
+ Tỷ lệ tài sản sinh lời là chỉ tiêu cho thấy tài sản sinh lời chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng tài sản của NHTM. Khi tỷ lệ này giảm, sẽ làm giảm mức thu nhập hiện tại của NHTM.
Tỷ lệ tài sản sinh lời
=
Tổng tài sản sinh lời
Tổng tài sản
Trong đó, tổng tài sản sinh lời bao gồm các khoản cho vay, các khoản cho thuê, đầu tư chứng khoán (hay bằng tổng tài sản - tài sản không sinh lời).
- Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động bao gồm chỉ tiêu hiệu quả từ hoạt động tín dụng và hiệu quả từ các hoạt động khác.
Hiệu quả từ hoạt động tín dụng: phản ánh quy mô, chất lượng hoạt động nghiệp vụ tín dụng của một ngân hàng. Quy mô hoạt động tín dụng thông qua các chỉ tiêu: doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ. Để thực hiện tốt chỉ tiêu này các NHTM luôn tìm kiếm cơ hội cho vay các khách hàng mới và mở rộng quan hệ tín dụng đối với các khách hàng truyền thống của ngân hàng. Chất lượng các khoản vay được biểu hiện tỷ lệ giữa nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay. Đó là tỉ lệ để xác định khoản nợ mà khách hàng vay vốn của NHTM nhưng khi đến hạn chưa trả được. Tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại. Muốn sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng tín dụng một cách chính xác cần lưu ý tới các nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn.
Hiệu quả của hoạt động khác: bảo lãnh thanh toán hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu, hợp đồng thi công (bằng nhiều hình thức), chiết khấu chứng từ,…
Hiệu quả hoạt động dịch vụ: dịch vụ mở tài khoản, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ thanh toán trong và ngoài hệ thống n